Bình Luận

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

“vẫn Còn” Hay “không Còn ?”

08.2021

 

* xin thưa: 

Từ khoảng thập niên 60, nhất là sau tháng Tư 1975, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống Nhất (GHPGVNTN) đã và đang phải trải qua “Pháp nạn” tàn khốc mà hàng Phật tử còn hướng về GH (trong bài này là nói về GHPGVNTN) không khỏi lo âu!

Thông thường những bài viết liên quan hiện tình GH từ lâu nay đều do các vị trí thức, khoa bảng, “văn hay chữ tốt…”

Với sự hiểu biết còn rất ư giới hạn, văn dốt võ dát, chỉ thuộc hàng “…dựa cột mà nghe…” và cá nhân tôi cũng chỉ đọc qua sách báo, trang mạng, nghe thân hữu chứng kiến kể lại..v..v… Sau những đắn đo, cân nhắc (không tự lượng sức mình?), cuối cùng cũng muốn trình bày một lần, những ưu tư khắc khoải của một Phật tử bình (hay tầm) thường luôn hướng tâm về GH!

Tài liệu trích dẫn gồm: Đạo Phật & Dòng Sử Việt của Tỳ Kheo Trí Tạng - Thích Đức Nhuận do Phật Học Viện Quốc Tế California Hoa Kỳ ấn hành năm 1998, xin được viết gọn: ĐP & DSV, Nguyệt san QUÊ MẸ (:QM) xuất bản tại Pháp số 125&126 tháng 10&11.1993 và Xuân Giáp Tuất – 1994, tháng 1 – 2 số 127&128 (QM Xuân).

Một phần những thông tin về GH trong trang nhà Phòng Thông tin Quốc Tế (:PTT) do cư sĩ Võ Văn Ái điều hành, tiếc là nay đã không còn, cùng một số trang mạng đính kèm dẫn chứng…..

 
 

*PHÁP NẠN MỘT - thành lập GHPGVNTN :

 

Cho đến năm 1963 Phật giáo VN gồm nhiều Giáo hội khác nhau. Do nhà cầm quyền đương thời cấm treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản một cách quyết liệt, điều mà những năm trước đó không hề có đã đưa đến việc hình thành Giáo Hội PGVNTN. Xin tạm trích lại những nguyên nhân có tính cách kỳ thị Phật giáo cùng một vài “sự kiện” liên quan...

 
 

-CẤM TREO CỜ PHẬT GIÁO.

 

“…công điện số 9195 ngày 6-5-1963 của văn phòng Tổng Thống, bắt buộc đồng bào Phật tử phải hạ Phật kỳ trong ngày cúng dường Phật đản…” (ĐP&DSV, trg 482) Như vậy là cờ PG bị cấm treo trong ngày đại lễ, 2507 PL, và đó là nguyên nhân đã khởi đầu cuộc đấu tranh của PG: “….vận động đòi Bình đẳng và Tự do Tôn giáo…” trong đó có yêu cầu hủy bỏ luôn Dụ số 10 có từ năm 1950 do thực dân Pháp ban hành và đến Đệ Nhất Cộng Hòa vẫn còn giá trị, theo đó Phật giáo chỉ là một Hiệp Hội như những Hiệp Hội ái hữu, tương tế…v...v.... (ĐP&DSV, trg 453-454)

Cao điểm là 8 người đã bỏ mạng và nhiều người bị thương…khi đi nghe buổi truyền thanh Phật giáo tại đài phát thanh Huế mà sau đó một thông cáo được tung ra sau vụ tàn sát, đỗ lỗi do đồng bào Phật tử bạo động - Việt cộng lợi dụng đặt chất nổ, nhằm mục đích đánh lạc vấn đề, trốn tránh trách nhiệm…

Một giáo sư đại học Huế, bác sĩ ERIC WOLF, người Tây Đức đã than: “Theo dõi công cuộc xảy ra ở đài phát thanh, tôi có cảm tưởng như đang sống trong thời kỳ Trung cổ, một thời kỳ dã man nhất của những kỳ thị ở Âu châu..” (ĐP&DSV, trg 479-480).

Theo báo ‘LE MONDE’ ngày 16-5-63 theo luận điệu chính quyền thì đêm 8-5 dương lịch, một kẻ khủng bố đã tung lựu đạn làm chết bẩy người.., bên Phật gíáo thì quả quyết quân đội đã nổ súng…và gọi xe tăng đến giải tán dân chúng….” (ĐP&DSV, trg 486).

…………

 
 
 

“Trong thời gian sôi động đó Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chính thức khai sinh tháng 1 năm 1964 nhằm quy tụ các hội đoàn, tông phái Phật giáo về một mối. Trước đó, Phật giáo Việt Nam không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nên tuy là số đông mà không có uy lực. Tổ chức quy mô toàn quốc duy nhất trước năm 1964 là Tổng hội Phật giáo Việt Nam thành lập từ năm 1951 gồm các thành phần Phật giáo Đại thừa khắp ba miền Nam, Trung, Bắc nhưng việc điều hành Tổng hội vẫn yếu. Phật giáo Nam tông thì lại có tổ chức riêng với tên Giáo hội Phật giáo Nguyên thủy, trụ sở ở chùa Kỳ Viên, Sài Gòn. Cuộc chính biến thúc bách các tổ chức Phật giáo miền Nam và miền Trung thuộc Phật giáo Đại Thừa (Bắc tông) lẫn Phật giáo nguyên thủy (Nam tông) đoàn kết gia nhập dưới một hiến chương thành một giáo hội, lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Cuộc họp bắt đầu từ ngày 31 Tháng Chạp năm 1963 tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn với:[1]

  1. Ủy ban Liên phái Phật giáo: Thượng tọa Thích Tâm Châu

  2. Giáo hội Tăng già Bắc Việt: Thượng tọa Thích Tâm Giác

  3. Thiền tịnh Ðạo tràng: Thượng tọa Thích Minh Trực

  4. Giáo hội Nguyên thủy Việt Nam: Thượng tọa Thích Pháp Tri

  5. Giáo hội Theravada: Lục cả Lâm Em

  6. Giáo hội Tăng già Bắc Việt tại miền Nam: Thượng tọa Thích Thanh Thái

  7. Giáo hội Tăng già Trung phần: Thượng tọa Thích Huyền Quang

  8. Giáo hội Tăng già Nam Việt: Thượng tọa Thích Thiện Hoa

  9. Hội Phật học Nam Việt: cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền

  10. Hội Phật giáo Nguyên thủy: cư sĩ Nguyễn Văn Hiếu

  11. Hội Phật giáo Trung phần: Thượng tọa Thích Trí Quang

  12. Hội Việt Nam Phật giáo: cư sĩ Vũ Bảo Vinh

  13. Ðại diện Phật tử Theravada: cư sĩ Sơn Thái Nguyên

Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Tăng thống. Thượng tọa Thích Tâm Châu được bầu vào chức vụ Viện trưởng Viện Hóa đạo và Thượng tọa Thích Trí Quang giữ chức Tổng Thư ký Viện Tăng thống.[2] Chùa Ấn Quang tại Sài Gòn được chọn làm trụ sở sinh hoạt của Giáo hội. ……..”

https://vi.wikipedia.org/wiki/Giáo_hội_Phật_giáo_Việt_Nam_Thống_nhất

 
 
 

-MỘT VÀI SỰ KIỆN LIÊN QUAN…

 

Các nhà sư đại diện cho Phật giáo miền Nam gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm (áo trằng, bìa phải trong ảnh) vào ngày 15/5/1963.

Ảnh: Cuộc tranh đấu lịch sử của Phật giáo.

 

Đính kèm tấm hình Phật gía gặp Tổng Thống Ngô Đình Diệm…..
https://luatkhoa.org/2020/03/hoa-thuong-thich-quang-duc-tu-thieu-hay-bi-thieu/

 
 

*HT THÍCH QUẢNG ĐỨC tự thiêu.

 

Trong cuốn Phật giáo Tranh đấu của Quốc Oai, trước khi tự thiêu thì Hòa thượng Quảng Đức có viết di nguyện của mình vào ngày 30/5/1967 nói về mong muốn của ông về việc tự thiêu, trong đó có đoạn:

“Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Âm, Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một Tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường Chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo”.[3]

Để tiếp sức cho cuộc tranh đấu đang vào thế khó, ông kêu gọi tổng thống hãy chấp nhận năm nguyện vọng của Phật giáo miền Nam cùng lời chúc đất nước thanh bình, tăng ni bình an, phật tử an ổn, Phật giáo bất diệt.

Một số bài thơ cũng được cho là di ngôn của ông trước khi tự thiêu, trong một bài thơ có đoạn trích:

“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình

Làm đèn soi sáng nẻo vô minh

Khói thơm cảnh tỉnh ai còn ‘ngốc’

Tro trắng phẳng san hố bất bình”

(Trích trang mạng Luật Khoa nêu trên.)

 

Hòa thượng Quảng Đức ngồi yên khi ngọn lửa bao bọc lấy ông. Ảnh: Malcolm W.Brown.
https://www.luatkhoa.org/2020/03/hoa-thuong-thich-quang-duc-tu-thieu-hay-bi-thieu/

 

“ ………….

Lúc này, nhà báo Malcolm W. Browne, người đang đứng lẫn với tăng ni, biết điều quan trọng mà Hòa thượng Đức Nghiệp nói với ông trên điện thoại. Ông lấy máy ảnh ra bắt đầu chụp những tấm ảnh làm chấn động dư luận thế giới. Ông là phóng viên duy nhất ngày hôm đó mang theo máy ảnh.

Trong các bài tường thuật của mình, Malcolm kể rằng ông thấy Hòa thượng Quảng Đức bình tĩnh bước xuống xe rồi bước vào trong vòng tròn của tăng ni, ông không nói một lời nào với đám đông. Chân Ngữ và Trí Minh giúp ông ngồi xuống trong tư thế thiền, hai bàn chân bắt chéo đặt lên đùi. Theo sự phân công như Hòa thượng Đức Nghiệp viết trong tự thuật của mình thì Chân Ngữ là người đã mở nắp thùng nhựa, tưới xăng từ trên đầu xuống đến vai hòa thượng Quảng Đức, tưới xong thì đặt thùng xăng xuống rồi lùi ra xa………

Malcolm nói, khoảng 9 giờ 22 phút, ông thấy rõ Hòa thượng Quảng Đức tự đánh diêm rồi chạm nhẹ xuống tà áo, ngọn lửa bùng lên rồi ôm trọn lấy thân thể ông, ông ngồi thật yên không hề giãy giụa. Biểu ngữ “Một nhà sư trụ trì thiêu mình cho 5 nguyện vọng của Phật giáo” được căng lên.

Một tấm ảnh cận cảnh của nhà báo Malcolm W.Brown đăng trong một bài viết của ông trên tờ High Point Enterprise vào ngày 20/10/1963.

Ảnh bên phải cho thấy Hòa thượng Thích Quảng Đức có vẻ như đang đưa cánh tay phải lên bật lữa.

Khoảng 10 phút sau, chân Hòa thượng Quảng Đức co giật vài lần trước khi bật ngửa về phía sau trong lúc thịt da ông vẫn còn đang cháy.

Đến 10 giờ, tăng ni đắp cà sa lên xác đã cháy đen của Hòa thượng Quảng Đức rồi đưa về chùa Xá Lợi trong sự kinh ngạc của mọi người.”

 
 
 

HT Thích Quảng Đức nguyện tự thiêu để cảnh tỉnh Đệ Nhất CH. Trái Tim Xá Lợi của Ngài trên tay Thầy Huyền Quang.

 
 

Có 6 Tăng Ni (..Đại Đức Nguyên Hương, Sa di Thanh Tuệ, Ni sư Diệu Quang…) cũng đã tự thiêu sau Ngài Quảng Đức.
(ĐP DSV, trg. 613)

 
 

Nhà thơ lớn VŨ HOÀNG CHƯƠNG đã sáng tác bài thơ trác tuyệt LỬA TỪ BI, kính dâng lên Bồ tát Quảng Đức:

 
 

Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!

Tám chín phương nhục thể trần tâm

Hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.

…………………….

Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên-thu-tuyệt-tác

Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.

Rồi đây, rồi mai sau còn chi?

Ngọc đá cũng thành tro

lụa tre dần mục nát 

Với thời gian lê vết máu qua đi…

Còn mãi chứ! Còn TRÁI TIM BỒ TÁT

Gội hào quang xuống tận ngục A-Tỳ.

…………..

      Khởi viết ngày 11-6-63
và xong ngày 15-7-63 tại Saigon.
(ĐP&DSV, trg. 518)

 
 

Thái độ của Bà Ngô Đình Nhu .…:

 
 

“Người Mỹ cố gắng làm dịu tình hình và thuyết phục Diệm đàm phán. Tuy nhiên, bà Nhu và chồng đã làm tình hình trở nên trầm trọng hơn. Trong một lá thư gửi cho New York Times, bà Nhu viết, “Tôi sẽ vỗ tay khi xem một buổi biểu diễn thịt nướng của một nhà sư khác,” và bà đề nghị mang theo xăng, diêm hoặc mù tạt cho vụ tự thiêu tiếp theo.” (xin nhấn mạnh).  

https://de.wikipedia.org/wiki/Madame_Nhu

 
 

Ấy vậy mà mãi cho đến nay, không ít những kẻ vẫn tỏ ra khoái trá (?), lập lại những lời nói này hay tương tự như vậy:

Lời nói chỉ dành cho hàng vô loại!

Thay vì thực tâm giải quyết vấn đề, nhà cầm quyền lại tìm cách dựng ra một “Đại hội đồng toàn quốc“ dựa vào hệ phái Cổ Sơn Môn hòng xóa bỏ tính cách đại diện của Tổng hội PGVN. Nhưng cái gọi là “Đại hội đồng toàn quốc Cổ Sơn Môn” không lừa đảo được ai cho nên sau đêm tấn công chùa chiền, bắt bớ Tăng, Ni, Phật tử (20.8.1963), nhà cầm quyền lại đẻ ra một tổ chức Phật giáo mới gọi là “Ủy ban Liên hiệp Bảo vệ Phật giáo thuần túy” giao cho Thượng Tọa Thích Nhật Minh cầm đầu với một số sư giả, mới cại đầu, chiếm chùa Ấn Quang làm tổng hành dinh. Ủy ban này cũng ra tuyên ngôn đủ thứ, ủng hộ nhà cầm quyền..v..v..nhưng vẫn không gạt được ai, nhất là Phật tử…

Báo TIẾNG CHUÔNG ngày 22.6.1963 đã đưa tin: “Sáng 20-6, tại Chùa Tổ Đình Giác Lâm (P.T.H) PHẬT GIÁO CỔ SƠN MÔN họp Đại Hội….” (QM, trg. 10) (1)

Trước những bất lợi cho chế độ trong cũng như ngoài nước, chính quyền cho thành lập một Ủy ban Liên bộ để thương nghị với Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo (TT Thích Tâm Châu, Trưởng phái đoàn) trong các ngày 14, 15, 16 tháng 6 năm 1963 tại Hội Trường Diên Hồng. Sau hội nghị một bản thông báo chung ra đời gồm 5 điều khoản, đại ý: 1/ qui định treo cờ Quốc gia và Phật giáo. 2/ Dụ số 10 không còn áp dụng cho Phật giáo. 3/ Sẽ chỉ thị cán bộ thực thi nghiêm chỉnh bình đẳng tôn giáo.. 4/ Tự do truyền đạo.. 5/ Sự việc ngày 8.5.1963, trừng phạt cán bộ có trách nhiệm và bồi thường cho gia đình nạn nhân…

Thế nhưng chỉ hai ngày sau, 18-6-1963, dưới sự chỉ đạo của cố vấn Ngô Đình Nhu, đổng lý văn phòng phủ tổng thống, Quách Tòng Đức, ký bản mật điện số 1312 VP/TT gửi cho các cơ quan…Ngày 19-6-1963, UBLP nhận được bản sao bức mật điện. Đại ý,“… trước mắt để làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn tăng, ni và Phật giáo phản động. Tổng Thống và ông cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ…..Kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gửi đến sau….“ (ĐP&DSV, trg. 520-521)

Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo kiến nghị phản đối nghị định số 358 BNV/KS. 9-7-1963, và yêu cần chính phủ thực thi bản Thông Cáo chung….

 
 

*TẤN CÔNG CHÙA CHIỀN… 

 
 

“Vào khoảng giờ tý đêm 20 tháng 8 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tổng càn quét tất cả các chùa chiền nào là tụ điểm cho cuộc đấu tranh của Phật giáo trên toàn quốc….: Xá Lợi, Ấn Quang, Từ Đàm, Diệu Đế, Báo Quốc…”

“Theo tài liệu công bố là 1.400 Tăng Ni trên toàn quốc đã bị bắt, nhưng thực tế có thể cao hơn.” (ĐP&DSV, trg 604)

 
 
 

*BẤT HÒA.

 
 

Tuy khoảng giữa thập niên 60, hai vị Hòa Thượng (HT) Trí Quang, chùa Ấn Quang, và Tâm Châu , Việt Nam Quốc Tự, đã cùng ký tên trong một thông báo chung, xác định không hề có “lục đục” giữa hai Vị như những đồn đãi. Thế nhưng thời gian sau đó thì giữa Ấn Quangvà Việt Nam Quốc Tự đã xảy ra những bất đồng!

 
 
 

*BÀN THỜ PHẬT XUỐNG ĐƯỜNG…

 
 

Năm 1966 việc bàn thờ xuống đường, đổ lỗi do HT Trí Quang xúi giục mà không cần hay không muốn nhìn thẳng do ai!

 
 

“………

IV- Ước Nguyện Bình Sinh Và Nỗi Oan Khó Nói

 Dù là nhà lãnh đạo Phật Giáo có thẩm quyền quyết định cao nhất, nhưng không phải việc gì Hòa Thượng Thích Trí Quang cũng có thể kiểm soát hết. Như Hòa Thượng đã viết trong Tự Truyện đã được trích ở trên rằng,

“Nhưng rồi tôi chữa lửa mà bị cho là đốt nhà. Bao nhiêu chuyện xảy ra, ở Huế cũng như ở Sàigòn, do các ông Tướng ai cũng thấy mình có thể làm nên chuyện. Quần chúng Pg bị cuốn hút là vì cái tính “giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha,” nên bị lợi dụng có khi thật phiền.” Điều phiền nhất mà Hòa Thượng ghi trong Tự Truyện là chuyện về việc đem bàn thờ Phật ra đường trong biến cố xảy ra tại miền Trung năm 1966. Hòa Thượng kể rằng, “Một đoàn chiến xa và thiết giáp khá hùng hậu, được điều động từ Quảng trị vào Huế. Khi sắp qua cầu An hòa, viên sĩ quan chỉ huy ra lịnh ngừng lại để anh đi thám sát đã. Anh đến chùa của khuôn hội Pg Phú thạnh,miệng hét, tay làm, hối thúc Phật tử khuôn hội, có anh phụ lực, khiêng bàn Phật ra đặt giữa đường, lại thúc hối tư gia Phật tử làm theo.

Viên sĩ quan quay lại, báo cáo đường bị cản trở. Rồi đợi lịnh. Nhưng bàn Phật được đưa ra càng nhiều. Khuôn hội Phú thạnh đã chạy vào Diệu đế thông báo cho tôi và hỏi ý kiến. Tôi hỏi Ôông (Ôn) Thiện siêu đang có mặt. Ôông nói, ‘thụ động chứ biết làm sao.’ Thực tế tôi cũng không thể bảo ngưng được nữa. Bàn thờ Phật đã có sau trong thành phố rồi. Chưa bao giờ, mà bây giờ, tôi phải xúc phạm sự tôn nghiêm đến mức này!” ( xin nhấn mạnh..)

Đó là điều tất yếu phải xảy ra cho mọi phong trào quần chúng. Khi một phong trào đã phổ biến ra quần chúng thì không một nhà lãnh đạo quân sự, chính trị, xã hội, hay tôn giáo nào có đủ sức để kiềm chế, hay kiểm soát hết mọi tình hình. Cũng chính ở nhược điểm này mà Phật Giáo Việt Nam đã không ngừng bị lợi dụng, bị chụp mũ, và bị kết án.”

https://thuvienhoasen.org/p60a14733/1/hoa-thuong-thich-tri-quang-va-mot-chang-duong-lich-su-phat-giao-viet-nam-huynh-kim-quang

 
 

Một việc liên quan đến cá nhân HT Trí Quang mà cũng cho là có liên quan đến GH, đó là một số người trong thời gian qua đã ồn ào tố cáo, xác quyết HT là… “cộng sản nằm vùng!”, từ đó cho rằng HT và GH cũng là thủ phạm trong việc VNCH bị cộng sản đánh bại(?).

Không thấy những người này nói gì đến các “điệp viên 007 của cộng sản được chứa chấp trong Dinh Độc Lập: đại tá Phạm ngọc Thảo, Vũ ngọc Nhạ…”, càng không dám nói đến tên Nixon, Kissinger, đồng minh chí tình (?) nhưng quyền lợi riêng vẫn trên hết, vì “tiền đồn chống cộng không cần nữa“, vì những hợp đồng béo bở cho các đại tư bản…v..v…và ..v..v.. đã bán đứng VNCH! (*) (2)

 
 
 
 
 

Hình chụp Kissinger và Lê Đức thọ…

 
 

*ÔN ĐÔN HẬU.

 
 

“…một giờ sáng ngày 20 tháng giêng âm lịch, tức 18.2.1968, cộng sản đến chùa Linh Mụ bắt Hòa Thượng đưa lên chiến khu. Đang bị xuất huyết dạ dày, ngồi không vững, bộ đội c.s. bỏ lên võng gánh đi……..” Họ nói dịu dàng thôi: “Bác tham gia Cách mạng hay không, tùy Bác lựa chọn. Không tham gia thì chúng tôi gánh lại về chùa…….” Hòa Thượng thừa biết “gánh về chùa” là đem thủ thiêu. (QM, trg. 15)

Trích lại dẫn chứng trên là vì sau đó có không ít người vu khống Ngài tự ý chạy theo…

 
 
 

*PHÁP NẠN HAI - SAU 30.4.1975.

-GH BỊ KHỦNG BỐ, TRIỆT HẠ…

 

* Sau 30.4.1975 việt cộng đã bắt giam, tra tấn sát hại, tù đày chư Tôn Đức, cướp đoạt tài sản…v…v… không ngoài ý định nhằm triệt hạ GH và liên tục cho mãi đến nay:

- Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Vụ Thanh niên - Sinh viên - Học sinh bị tra tấn đến chết ở trại Thẩm Vấn X4, đường Nguyễn Trải Sàigòn, sau đó xác mới đưa về hóa trang ở trại Hàm Tân. (QM, trg. 75)

- Ngày 2.11.1975, 12 Tăng Ni Thiền viện Dược Sư - Cần Thơ tự thiêu nhằm phản đối việc đàn áp PG đã bị việt cộng vu khống bằng lời lẻ bẩn thỉu, hèn hạ của Ban Tôn giáo do tên Trưởng Ban, Vũ Quang ký. (QM, trg 71)

- Hòa Thượng Thích Huyền Quang bị quản chế ở chùa Hội Phước Quảng Ngãi năm 1982, sang 1995 bị lưu đày về chùa Phước Quang huyện Nghĩa Hành nằm giữa đồng không mông quạnh.

- Hòa Thượng Thích Quảng Độ vì không chịu để cho cộng sản giám sát GH và kêu gọi biểu tình chống chế độ nên bị bắt giam từ tháng 6 năm 1977. Đến năm 1982, cùng Mẹ bị trục xuất về nguyên quán là xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình, miền Bắc.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Quảng_Độ

*Tháng 11 năm 1981 tại Hà nội, việt cộng thành lập Giáo Hội PGVN, mà người dân thường gọi là GH quốc doanh, trực thuộc tổ chức Mặt trận tổ quốc, cánh tay nối dài của đảng cs.

Một số thành viên GH đã gia nhập (HT Thích Minh Châu nguyên Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh, người hô hào ‘nhà nước‘ nên trừng trị Thầy Quảng Độ về tội chống phá! – Những sai lầm của đảng csvn…tác giả Thích Quảng Độ - ), cũng như vì “lầm tưởng thiện ý của vc” mà gia nhập (HT Thích Trí Thủ… Ngài đã bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bức tử trong một cuộc hỏi cung… (QM, trg 75) và đã bị nghi là bị cs đầu độc bởi mặt Ngài bị tím thâm!).

“….Lễ khai mạc này dành thông qua Bức thư gửi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh: ‘Chúng tôi, Giáo hội Phật giáo Việt Nam xin long trọng hứa với Trung ương Đảng và Hội đồng Nhà nước, cũng như với Chủ tịch rằng…” (QM, trg. 8)

Đây chẳng phải là GH quốc doanh, một công cụ tay sai do việt cộng dựng lên là gì?

 

-HT THÍCH ĐÔN HẬU: TÁI CỦNG CỐ, TỔ CHỨC SINH HOẠT GH.

 

*Năm 1976, HT đã có tiếp xúc với ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Hữu Thọ.

Trong cuộc tiếp xúc với ông Đồng, sau những đối đáp, trả lời rõ ràng những qui tội cho GH (Ấn Quang) mà ông Đồng kết án và đã hỏi:

“- Cụ nói như vậy, thì Phật giáo muốn cho người Mỹ ở mãi đây sao?  Ở mãi tại Việt Nam hay sao?

-Cũng được thôi, tôi trả lời, chẳng những chừng ấy người Mỹ mà thêm nữa cũng được thôi. Bởi vì trước kia, chưa ký kết hiệp định thì họ là quân đội, là người thù. Đến khi hiệp định ký rồi, họ không còn là quân đội nữa, mà là bạn, để ăn ở với nhau, cùng nhau kinh tế, sống với nhau, thì cũng tốt thôi. 

Tôi phát biểu đến đây, Thủ Tướng không nói thêm gì nữa.. “Phải chăng mãi đến khoảng đầu thế kỷ XXI - vc, “đỉnh cao trí tuệ loài người (?)” mới (muộn màng) nhận ra những điều “ắt có” mà HT đã “mớm” cho họ…? 

Nói chuyện với Nguyễn Hữu Thọ, Ngài thẳng thắn chỉ trích việc đập phá tượng Phật lộ thiên như ở Gia Lai – Kontum, Ban Mê Thuộc, Biển Hồ, rất lớn và đẹp, Vũng Tàu, Phan Thiết, Qui Nhơn, Quảng Ngãi…  (QM, trg. 17-19) 

HT cũng nói qua về việc ép Ngài ra ứng cử vào quốc hội vc (mà ai cũng biết chỉ là đảng biểu dân bầu!), những người đón tiếp và vận động HT nhận lời gồm các ông Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh  Tấn Phát, có cả Trịnh Đình Thảo. Thế nhưng mặc khác thì họ không muốn HT …đắc cử!  “…Thế mà trong cuộc bầu cử, Hòa Thượng Đôn Hậu không có uy tín bằng anh dân tộc (một ứng cử viên người dân tộc thiểu số). Anh dân tộc 90%, còn Ôn Đôn Hậu hơn 60%.....”. Đến đây thì ông Võ Nguyên Giáp nói: “…Nầy! Đôn Hậu này! Tôn giáo mà họ bầu như vậy là cao lắm rồi đó nghe…”  HT cho biết, nếu không tự dằn lòng là thầy tu “thì cái ghế của tôi sẽ phang lên đầu ông Võ Nguyên Giáp…”  (QM, trg. 22)  

Cuối cùng sau bao nhiêu trở ngại, năm 1976, HT cũng được thăm viếng Hội đồng Lưỡng viện tại chùa Ấn Quang, sau 8 năm xa cách….

“Lúc đến nơi đã có Thương Tọa Thiện Minh và Huyền Quang. Ngồi nói chuyện một lúc, HT Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo đến. Lần lượt đầy đủ Hội Đồng Viện. Sau khi chào hỏi nhau xong, HT Trí Thủ hỏi theo ý Ngài thì làm sao để duy trì đạo pháp, duy trì tổ chức… Ngài trả lời, đại ý:

1/ Cấp lãnh đạo phải củng cố bồ đề tâm, nếu không thì không lãnh đạo ai được.

2/ Phải giữ gìn giới hạnh thật trang nghiêm, nhất là cấp lãnh đạo..

3/ Cố găng xiển dương chánh pháp, không chú ý đến số lượng tham dự nhiều hay ít…

4/ Cố gắng tìm người thừa kế. Thiếu Tăng bảo tức thiếu Phật và Pháp bảo…v..v…

Sau buổi phát biểu này, Tăng, Ni trước đó có cái nhìn ít thân thiện vì cho rằng Ngài bên ngoài áo vàng, bên trong áo đỏ thì đã thay đổi bảo Ngài mặc áo vàng cả ngoài lẫn trong… Thượng Tọa Thiện Minh bày tỏ cảm kích…:

Đi lâu mới biết đường dài,
Ở lâu mới biết con người phải chăng!”
(QM Xuân, trg. 46-47)

Từ Saigon, ngày 9 tháng 5 năm 77, TT Thiện Minh đã gửi thư cho HT bày tỏ lòng cảm kích khi nghe quan điểm của Ngài đối với vận mệnh GH trong tình huống bi đát và cũng liên quan mật thiết đến Đạo pháp trước những ấu trĩ, phủ phàng, ngang ngược..v..v…HT đưa ra bốn điều trong buổi gặp nhau lại là một nguồn an ủi lớn đối với TT… (QM Xuân, trg. 53) (3)

 
 

*TT THÍCH THIỆN MINH BỊ GIẾT!

 

Việc Ngài từ chức Đại biểu Quốc hội không đơn giản! (4)

Việt cộng đã vận động cho Ngài rút lại đơn nhưng không xong, cuối cùng thì ngày mồng 8 tháng chạp năm 1978, đại diện Trung ương là ông Bùi San và Cổ Kim Thành. 

Ngài đã tế nhị trình bày việc từ chức và cũng nhân đó đặt vấn đề nếu được đáp ứng sẽ không từ chức nữa. Tóm tắt như sau:

“1/ Trả tự do cho tất cả tu sĩ bị bắt mà không can án. Ông Bùi San hỏi: Không can án? Ngài đáp, Đúng! Nếu có tội thì điều tra rồi đưa ra tòa xét xử. Thấy không tội thì hãy trả tự do. Chứ giam cầm đã lâu mà không xét xử?

2/ Đưa cái chết của TT Thiện Minh ra ánh sáng! Nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng, không nói lôi thôi gì hết. chuyện này có người giết thật.

3/ Chấm dứt tình trạng khủng bố Phật giáo đồ ở các địa phương…

Về trường hợp thứ 2/ : ..khi hỏi Thiện Minh có tội gì mà bắt thì cơ quan ở Saigon trả lời

“Thiện Minh có ba tội:

1. Quyến luyến chế độ cũ,

2. Tội vượt biên,

3. Đời tư không tốt.”

Từng điểm một khi bị HT vặn hỏi, họ lúng túng không trả lời được:

1/ …Cơ quan nói Thiện Minh còn quyến luyến chế độ cũ. Vậy quyến luyến như thế nào? Xin đưa ví dụ….

2/ …Sau khi Thiện Minh bị tịch thu thẻ cư trú ở cư xá Quảng Đức, phải về chùa Gia Lam ở. Các ông lại đến hỏi giấy tờ. Dĩ nhiên không có, lại bị bắt…….Thiện Minh từ Saigon sang Gia Định, về Lái Thiêu. Thiện Minh ngồi trên ô tô, đi trên xa lộ, như vậy mà gọi là vượt biên? Mỗi ngày có hàng triệu người vượt biên cách đó, tại sao không bắt? ……….

3/ …Nhưng mà chuyện đời tư trong nhà người ta, mặc kệ người ta, chuyện gì mà Chính phủ bắt? Giả sử như đời tư không tốt, các ông căn cứ vào đâu để nói? Chắc chắn các ông căn cứ vào tờ báo Sóng Thần chứ gì? Mà tờ Sóng Thần ai chủ trương ? – Chu Tử. Theo các ông thường nói, Chu Tử là CIA. Mà người của CIA là thế nào? Là người ghét Thiện Minh đáo để, nên đã bỏ tù Thiện Minh, đã ám sát Thiện Minh bằng lựu đạn. Thế mà bây giờ căn cứ vào tờ Sóng Thần lên án Thiện Minh!....

……., tôi kết luận là Thiện Minh không có tội gì cả! Người bị bắt đã vô tội, thì người đứng ra bắt có tội. Tại sao Chính phủ làm sự việc lạ lùng hết sức như vậy? Bắt người không có tội chi cả là Thiện Minh, lại dung thứ cho người có tội là cơ quan, rồi để người ta chết trong trại giam….” (QM Xuân, trg. 50-51)

 
 

*CỦNG CỐ GH.

 

“Trong dịp đầu Xuân Kỷ Mùi khi Hòa Thượng Đôn Hậu, Chánh thư ký Viện Tăng Thống và quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại đức trong Giáo hội Thừa Thiên đến Tổ đình Thiền Tôn đãnh lễ và Chúc Thọ đầu năm (04/01 Kỷ Mùi)……..

Sau lễ Chúc Thọ, như một vị Bồ Tát “Dự tri thời chí”, linh cảm trước được sự ra về vĩnh viễn của mình, Ngài* ân cần dạy bảo những lời đầu năm vô cùng xúc động: “Tôi nay tuổi đã già rồi. Tôi thấy sức khỏe tôi kém nhiều. Chưa biết chừng sự chết sẽ đến nay mai. Nay, nhân dịp đầu năm, Hòa Thượng và các Thầy đến thăm tôi, tôi xin cám ơn và xin cầu Phật gia hộ Hòa Thượng và các Thầy nhiều sức khỏe, cố gắng kiên nhẫn trước mọi nghịch cảnh, để phục vụ Giáo hội, dìu dắt Tăng Ni Tín đồ tu niệm. Tôi thật không có gì vui hơn”. ( * Chú thích: Ngài ở đây là Đệ Nhị Tăng Thống)

https://phathocdoisong.com/tieu-su-dai-lao-ht-thich-giac-nhien-de-nhi-tang-thong.html

“Năm 1977, Đại Hội kỳ VII của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang, ngài được suy cử chức vụ Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống.

Năm 1979, Đức Đệ Nhị Tăng Thống, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, chùa Thuyền Môn, Huế viên tịch. Đại Hội kỳ VIII chưa tổ chức được để suy cử

Đức Đệ Tam Tăng Thống, do đó Hội Đồng Lưỡng Viện cung thỉnh ngài kiêm nhiệm luôn chức vụ Xử Lý Viện Tăng Thống…………….”

V. Những năm tháng cuối cùng: 

“Năm 1986, tình hình chính trị xã hội trong nước bước qua một giai đoạn mới. Bao nhiêu ưu tư, thao thức của ngài đối với tiền đồ Đạo Pháp có cơ may được thực hiện. Nhưng khổ nỗi, ngài tuổi già sức yếu, xã hội vẫn còn lắm khó khăn, người cộng sự thì thưa vắng…

Đặc biệt, vào những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, ngài vẫn chưa yên lòng nghỉ ngơi khi nhận thấy nhiều tổ chức Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại chưa kết hợp thành một khối để hỗ trợ và phát triển cho đạo pháp tại quê hương đất nước trước sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản khắp nơi trên thế giới. Vào ngày 10 tháng 9 năm 1991, ngài đã gởi một bức Tâm Thư đến Tăng Ni đang tu học và hành đạo tại hải ngoại, kêu gọi toàn thể chư Tăng Ni hãy đoàn kết hòa hợp để thực hiện trọn vẹn sứ mệnh của bậc Chúng Trung Tôn mà Phật pháp và lịch sử đang giao phó. 

Vào ngày 31 tháng 10 năm 1991, sau khi chư Tăng Ni tại hải ngoại đã đáp ứng tinh thần Tâm Thư, ngài nhân danh Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã gởi đến toàn thể Tăng Ni và Phật tử đang tu học và hành Đạo tại hải ngoại một bức Thông Điệp gồm có 04 điều khuyến thỉnh vô cùng khẩn thiết cho một nền Phật Giáo Thống Nhất tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ.” 

https://www.ghpgvntn.net/tieu-su-duc-de-tam-tang-thong-thich-don-hau/

*Ngày 6.4.1993, Cư sĩ PHẠM GIA BÌNH tự thiêu tại thành phố Boston, Hoa Kỳ, để phản đối Nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp Phật giáo…. (QM, trg. 23) (5)

 
 

*HT THÍCH HUYỀN QUANG.

 

Trong “Bản Tự Thuật số 2” viết tại Quảng Ngãi, ngày 15.4.1993 của HT Huyền Quang “Về cuộc gặp gỡ ông Vũ Quang, Trưởng Ban Tôn giáo…” có vài ghi nhận như sau:

“Buổi họp thứ hai: …, trong một đoạn đối đáp của HT…: Trưa 30.4.1975,súng giải phóng đã không hướng về tiền phương, lại quay phía sau chống Giáo hội chúng tôi trước nhất. Do đó 17, 18 năm rồi, Giáo hội Ấn Quang chúng tôi từ đình trệ đến tan nát, người hết của mất, còn có sức mạnh gì mà dám đánh Đảng như ông nói. Tuy nhiên chúng tôi chỉ còn lại chút quyết tâm, chút chính nghĩa, chút trách nhiệm, chút lịch sử….” một ghi nhận tiếp sau nữa “… “ …Trước thái độ bất chấp và khinh thường của Nhà nước Cộng sản, dư luận quốc tế đã nhiệt tình ủng hộ phong trào đòi phục hồi sinh hoạt của Giáo hội Ấn Quang chúng tôi, như Đảng và Nhà nước đã biết….” (QM, trg. 64)

 “ ..v..v.. Nhưng trong các chỉ thị Mật, Tuyệt Mật lại lên án:‘ Bọn phản động Phật giáo Ấn Quang..‘..”   (QM, trg. 65)

Một mặt vc luôn hô hào tôn trọng tự do tôn giáo nhưng:… “Thật thế, Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng mang số 69/HĐBT nói trên, tuy công nhận và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của công dân (điều 1, chương I), nhưng điều 19, chương II thì lại ghi:

“Việc phong chức cho chức sắc nhà tu hành của các tôn giáo phải được sự chấp thuận của UNND tỉnh hoặc cấp hành chánh tương. Đối với chức sắc từ bậc Hòa thượng trong đạo Phật, Hồng y, Giám mục, Giám quản trong đạo Thiên Chúa và những bậc tương đương trong những tôn giáo khác phải được sự chấp nhận của Hội đồng Bộ trưởng.” - xin nhấn mạnh - (QM, trg. 42)

Tiếp đến có lẻ là một tuyên bố quan trọng (?):

“...Tôi cũng nói: Việc bài binh bố trận qui mô hiện nay tại tất cả các Tỉnh thành miền Nam Huế, chúng tôi coi đó là chiến dịch ‘Nước lũ’ thứ 2 đã bắt đầu để đàn áp Phật giáo, có Mặt trận Tổ quốc, Ban Tôn giáo tham dự, như Giáo hội chúng tôi dự báo qua Tuyên cáo ngày 7.11.92 vừa rồi…” (QM, trg. 68)

Sau cuộc gặp gỡ ngày 10.4.93, trong một thư hăm dọa của Ban Tôn giáo gởi cho HT Huyền Quang ngày 25 tháng 7 năm 1993, ông Vũ Quang đã viết:

“Vậy mà ông đã đi ngược lại sự nghiệp đoàn kết thống nhất Phật giáo. Ông đã dùng những lời lẽ nặng nề, xuyên tạc lịch sử cho rằng thắng lợi của sự nghiệp hòa hợp đoàn kết Phật giáo năm 1981 là ‘pháp nạn thứ hai’ …” (QM, trg 70)

 
 

*Ngày 24.5.1993, 40.000 quần chúng xuống đường tại Huế biểu tình đòi nhà cầm quyền cộng sản trả tự do cho Đại đức Thích Trí Tựu, Giám tự chùa Linh Mụ, và chấm dứt đàn áp Phật giáo……. Đại đức Trí Tựu xác nhận con số người biểu tình này và đánh giá: “Đây là một sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại dưới chế độ Cộng sản suốt mười tám năm qua.” (QM, L.T.S. trg. 55) (6)

“Ngày 23 tháng 4 năm 1992: Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch. Ngài xin chính quyền Quảng Ngãi ra Huế dự lễ tang, nhưng chính quyền Quảng Ngãi không cho Ngài đi. Ngài tuyên bố! “Nếu nhà cầm quyền Quảng Ngãi không cho tôi đi dự tang lễ, tôi sẽ tuyệt thực vô thời hạn và sẵn sàng cúng dường thân này lên Chư Phật và tạ lỗi lên Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, vì tôi đã không làm tròn nhiệm vụ mà Hòa Thượng giao phó”. Chính quyền nghe Ngài tuyên bố như vậy nên đành để Ngài đi. Tại tang lễ này, Hòa thượng Thích Nhật Liên, là trưởng tử của Cố Hòa thượng Đệ Tam Tăng Thống  đã trao lại cho Ngài ấn tín của Giáo Hội và lời di chúc của Cố Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu.

Đứng trước Kim quan Đức Đệ Tam Tăng Thống, Ngài dâng lời tác bạch, thể hiện nội dung đầy đạo tình đối với bậc lãnh đạo tối cao của Giáo Hội và trình bày khẩn thiết tâm nguyện phục hồi GHPGVNTN. Lời tác bạch có đoạn Ngài viết như sau: 

“Dầu có muôn ngàn khó khăn đi nữa, con vẫn không bao giờ chùn bước, quyết đòi hỏi nhà nước phải để GHPGVNTN phục hồi và được sinh hoạt bình thường như trước năm 1975”. 

Qua sự kiện này đã gây được sự phấn khích đối với Chư Tôn Đức Tăng Ni, đồng bào Phật tử trong và ngoài nước, khởi đầu cho cuộc vận động đòi hỏi quyền sinh hoạt tự do tôn giáo, trong đó có sự phục hoạt GHPGVNTN.

Cũng theo di huấn của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu và Hiến Chương của Giáo Hội, Ngài đã tiếp tục Phật sự trong cương vị là Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Xử Lý Viện Tăng Thống.

Trở về Quảng Ngãi sau khi nhận di chúc và ấn tín ủy thác Giáo Hội của Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Ngày 25 tháng 6 năm 1992, Ngài viết yêu sách 9 điểm gởi các cơ quan cao nhất của chính quyền Cộng Sản Việt Nam nhằm mục đích nói lên thảm trạng của GHPGVNTN đang bị nhà nước Cộng Sản đàn áp, khủng bố các hàng giáo phẩm của Giáo Hội và các Phật tử trong nước. Lên án đảng, nhà nước lập ra GHPGVN làm công cụ chính trị chia rẽ nền Phật giáo dân tộc.”

https://thuvienphatviet.com/tieu-su-ht-thich-huyen-quang/

 
 

*TUYÊN CÁO GIẢI TRỪ QUỐC NẠN VÀ PHÁP NẠN.

 
 

Từ Quảng Ngãi, ngày 20.11.1993. PL. 2537. Văn thư mang Số II-56/VPLV-VHĐ, với tư cách Quyền Viện Trưởng VHĐ/GHPGVNTN Ngài gởi Tuyên Cáo, đây được coi là sự kiện quan trọng nhất trong năm 1993. Sau khi PTT phổ biến thì các hãng thông tấn như AFP, Reuter, AP…báo chí như Le Monde ..loan tải trọng vọng.

Bản Tuyên Cáo đưa ra 12 điểm nhận thức tình hình….và đưa ra 9 biện pháp trị liệu dành cho nhà cầm quyền CHXHCNVN thực hiện mà căn bản có thể thu gọn: “Sám hối với người chết trong tinh thần nguyện hứa lo cho người sống được sống người.” 

Điều đáng nhắc đến là HT viết trong Tuyên Cáo: “Bỏ điều 4 trên bản Hiến pháp hiện hành…;..Bầu lại Quốc hội với sự tự do tham gia ứng cử của toàn dân…., để Quốc hội là Quốc hội của dân chứ không là Quốc hội của đảng.” 

HT nhấn mạnh “Bỏ điều 4 không có nghĩa là loại trừ hay tiêu diệt đảng Cộng sản. Chỉ xóa bỏ tính chất độc tôn độc quyền làm những điều sai lầm gây nguy hại cho đất nước….” HT cũng kêu gọi đừng sợ “Diễn biến hòa bình” vì theo Ngài vẫn hơn là “Diễn biến chiến tranh..” (QM Xuân, trg. 38-43) 

 
 
 

*SỰ KIỆN HY HỮU tại Huế...

 

“…Như ‘Kiến Nghị Thư số1’ của 56 Hòa Thượng, Thượng Tọa thuộc 17 Chùa ở Huế ký ngày 6.1.93. Từ cuối năm 1991 đến 29.4.93, Thượng Tọa Thích Tâm Trí, đại diện giới Tăng sĩ, đã nhiều lần viết thư gửi lên các cơ quan Nhà nước và Quốc hội phản đối việc cưỡng bức Tăng Ni phải khai trong hồ sơ lý lịch tôn giáo ‘thành tích cách mạng‘ (sic) của mình, và ‘lập trường chính trị trước và sau 1975‘ của cha mẹ, anh em, người đỡ đầu. Nhưng Đảng và Nhà nước không hề trả lời..” (xin nhấn mạnh ).  (QM, trg 32)

Ngày 14.10.93, 52 Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức thuộc 28 ngôi chùa ở Huế…..kéo về chùa Từ Đàm nói lên những điều quần chúng Huế bị bit miệng….xin gặp Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Ủ viên quốc hội và cũng là Ủy viên Thường trực Phật giáo nhà nước để yêu cầu giải quyết những nguyện vọng của Tăng Ni và Phật tử ở Huế trước hiện tình tang thương và bị đàn áp của Phật giáo…Một biểu ngữ treo trước chùa Từ Đàm suốt 3 ngày:“Yêu cầu giải quyết vấn đề Tăng sự Thừa Thiên - Huế!”, “Máu chảy ruột mềm, xin hãy bảo vệ Chánh Pháp!”

HT Thiện Siêu lánh mặt. Trước đó, 52 vị này cũng gởi Kiến Nghị thư số 2 lên Hòa thượng Thích Trí Tịnh, chủ tịch Phật giáo nhà nước…., dĩ nhiên cũng chẳng được trả lời!  (QM Xuân, trg. 57-58)

*“Năm 2000, trước hiện tình suy vong của đất nước Ngài viết bức thư đề nghị Đảng và Nhà nước CSVN lấy ngày 30 tháng Tư làm “Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc”, trong nghĩa Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống. Ngài đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm.” (Không ít người tâm đắc lời này, thông thường chỉ nghĩ đến Nhân quyền mà không ai nghĩ đến Linh quyền!)

https://www.giaohoipgvntn.org/copy-of-đức-đệ-ngũ-tăng-thống-th%C3%ADch

“*Sau Đại hội Bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều ngày 01-10-2003, Ngài cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ ủy thác cho các GHPGVNTNHN  tổ chức Đại hội Bất thường GHPGVNTN tại hải ngoại. Thừa hành ý chỉ này, chư tôn đức Giáo Phẩm Tăng Ni và Phật tử lãnh đạo GHPGVNTN hải ngoại đã tổ chức Đại hội Bất thường mở rộng tại Tu viện Quảng Đức thành phố Melbourne Úc Châu, ngày 10/12-10-2003. Chính Đại hội này công bố đầy đủ nhân sự lãnh đạo Giáo Hội trong nước và hải ngoại. Cũng trong Đại hội này, toàn thể Tăng, Ni và Phật tử hải ngoại suy tôn Ngài lên ngôi vị Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN.”  

 https://thuvienphatviet.com/tieu-su-ht-thich-huyen-quang/

 
 
 

Trong hoàn cảnh bị giam lõng, cô lập, phong tỏa giữa đồng không mông quạnh, phải đương đầu bao “Nội chướng, Ngoại ma“, một vài ghi nhận trong thời gian Ngài là Tăng Thống:

 
 

*THÀNH LẬP VĂN PHÒNG 2 – VHĐ tại Hải ngoại.

 

“PARIS, ngày 15.9.2007 (PTTPGQT) - Từ Tu viện Nguyên Thiều, Viện Tăng thống vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Giáo chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo mới, mang số 09/VTT/GC/TT ký ngày 27.7 Đinh Hợi, tức 8.9.2007.

Theo Giáo chỉ dẫn thượng cho biết, thì “Văn phòng II Viện Hóa Đạo đại diện cho Viện Hóa Đạo tại hải ngoại để truyền đạt chủ trương, đường lối và hoạt động của Giáo hội trong nước thông qua các cơ sở của Giáo hội ở hải ngoại, các cộng đồng Phật giáo và cộng đồng Người Việt hải ngoại nói riêng, và trong cộng đồng thế giới nói chung” (Điều 2). “Văn phòng II Viện Hóa Đạo trực thuộc sự chỉ đạo và điều hành của Viện trưởng Viện Hóa Đạo trong nước” (Điều 3).

Đặc biệt, “Văn phòng II Viện Hóa Đạo nối tiếp nhiệm vụ và hoạt động của Giáo hội gặp lúc Viện Hóa Đạo trong nước bị đàn áp không thể hoạt động” (Điều 4).

………….

Điều 6: Thành phần Văn phòng II Viện Hóa Đạo được thỉnh cử như sau:

-Chủ tịch: Hòa Thượng THÍCH HỘ GIÁC -Tổng Thư ký: Thượng tọa THÍCH VIÊN LÝ -Tổng Thủ bổn: Sư bà THÍCH NỮ NGUYÊN THANH -Tổng ủy viên Nội vụ và Hoằng pháp: Hòa thượng THÍ CHÁNH LẠC -Tổng ủy viên Ngoại vụ: Cưs VÕ VĂN ÁI -Tổng ủy viên Kế hoạch: Pháp sư Niên trưởng THÍCH GIÁC ĐỨC -Tổng ủy viên Thiện Xã hội: Hòa thượng THÍCH TRÍ LÃNG -Tổng ủy viên Giáo dục: Hòa thượng THÍCH CHƠN TRÍ -Tổng ủy viên Truyền thông: Thượng tọa THÍCH GIÁC ĐẲNG -Tổng ủy viên Thanh niên: Thượng tọa THÍCH HUYỀN VIỆT -Tổng ủy viên Tài chánh: Thượng tọa THÍCH PHƯỚC NHƠN -Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan: Hòa thượng THÍCH NHƯ HUỆ -Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Âu Châu: Hòa thượng THÍCH TRÍ MINH -Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Canada: Thượng tọa THÍCH THIỆN TÂM

……..

Điều 7: Quyết Định này thay thế và hủy bỏ Quyết Định số 27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày 10.12.1992.

Điều 8: Quí vị Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Tổng thư ký, Tổng vụ trưởng, Vụ trưởng các Tổng vụ thuộc Viện Hóa Đạo, và các Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại các châu lục hải ngoại chiếu nhiệm thi hành Giáo chỉ này.

Làm tại Tu viện Nguyên Thiều
Bình Định, 27.7 Đinh Hợi, Phật lịch 2551, nhằm 8 tháng 9 dương lịch 2007
Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN
(ấn ký)
Tỳ kheo Thích Huyền Quang”

https://web.archive.org/web/20080113230834/http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=846

 
 

*THÀNH LẬP PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ.

 
 

“…..chiếu quyết định số 68 ngày 29.7.1993  của Văn phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN ....:

Điều   I: Nay phê chuẩn việc thiết lập môt Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đặt ở nước ngoài….

Điều  II: Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế trực tiếp nhận những tin tức, chỉ thị từ Văn phòng Viện Hóa Đạo trong nước và Văn phòng II Viện Hóa Đạo…   

Điều III: Nay công cử Đạo hữu Võ Văn Ái lãnh trách nhiệm thiết lập và điều hành Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế.” (QM, trg. 62)

 
 
 

*CHÚC THƯ của Đệ Tứ Tăng Thống.

 
 

“4. Văn phòng II Viện Hóa Đạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại các Châu đã hình thành và hoạt động kỷ cương, nền nếp từ 12 năm qua. Xin chư Liệt vị đặc biệt lưu tâm để trong ngoài hòa hiệp gây trợ duyên cho đạo Phật Việt Nam góp mặt cùng thế giới trong công cuộc tịnh hóa nhân gian, xây dựng hòa bình trước bao khuynh hướng bạo động. Riêng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế hoạt động hiệu quả từ bao năm qua, nay cố duy trì và phát huy hơn nữa trong công cuộc truyền thông, vận động quốc tế và giới thiệu Đạo Phật Việt Nam.”

https://www.rfa.org/vietnamese/news/people_stories/Most-Ven-ThichHuyenQuang-Testament-08182008161818.html

 
 
 

*GIÁO CHỈ SỐ 9:

 

Đây là Giáo chỉ ban hành đưa đến nhiều ý kiến, tranh chấp trong nội bộ GH. Xin ghi lại một vài ý kiến liên quan:

-của TT Giác Đẳng, ngày 16.11.2007, theo trang nhà Phòng Thông Tin bên dưới.

“…………

Nhà cầm quyền có kế hoạch tinh vi để phân hoá, lũng đoạn Phật giáo trong “Tài liệu mật”, kế hoạch khống chế Phật giáo được Công an nói rõ. Một đoạn trích dẫn ở đây cho thấy điều đó :

“Thời gian qua, công tác vận động quần chúng tín đồ, tranh thủ hàng ngũ tăng ni đã đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ những sơ hở, thiếu sót, một số cao tăng phái Phật giáo Ấn Quang cũ vẫn còn mặc cảm, e dè. Vì vậy công tác có ý nghĩa chiến lược là phải tăng cường tranh thủ hàng ngũ tăng ni, nhất là số cao tăng, trong đó việc giải tỏa nghi ngờ, mặc cảm của số này có ý nghĩa quan trọng nhất. Cần tăng cường tiếp xúc, đối thoại với họ, kịp thời động viên và khuyến khích những hoạt động tích cực của họ, dù là rất nhỏ. Quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của họ và tạo điều kiện cho họ trong các sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng chính sách, pháp luật. Trong khả năng cần thiết và có thể nên thuyết phục và mạnh dạn đưa một số nhân vật có vị trí cao trong phái Phật giáo Ấn Quang còn đứng ngoài giáo hội tham gia vào “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, từng bước cảm hóa họ.

“Những đối tượng có hoạt động chống đối, hiện đang bị giam giữ hay quản chế phải tính toán đấu tranh có hiệu quả, nhưng phải rất coi trọng vấn đề giáo dục, cảm hóa theo phương hướng “vừa đánh, vừa kéo”.

“Cần khẩn trương rà soát, kịp thời khắc phục những sơ hở thiếu sót trong chủ trương chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng để tạo niềm tin trong tăng ni, tín đồ”.

…………………

Phải chấm dứt những nỗ lực phá hoại từ trong nội bộ

Cho dù lạc quan tới đâu cũng không thể phủ nhận rằng Giáo Hội đã bị manh múng trong cơ cấu trước chính sách phân hoá tinh vi của nhà cầm quyền cộng sản. Hoà Thượng Thích Quảng Độ ghi nhận rẳng:

“Thực tế hiểm nghèo mà Giáo hội đang phải đương đầu suốt ba năm qua trước chủ trương mới của Nhà cầm quyền Cộng sản nhằm thanh toán GHPGVNTN theo ba phương án: một là chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ cá nhân Đức Đệ tứ Tăng thống và Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thành phần mới chịu quy phục thế quyền phục vụ chính trị; hai là GHPGVNTN thay đổi danh xưng khác; và ba là sáp nhập thực thể GHPGVNTN vào một hình thái thống nhất Phật giáo mới do Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chủ trương. Phương án thứ ba tái hồi âm mưu thành lập một Tổng hội Phật giáo làm công cụ chính trị theo mô thức năm 1981, cốt đáp ứng tình thế mới do sức ép quốc tế yêu sách Nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các điếu kiện hội nhập Cộng đồng thế giới. (xin nhấn mạnh)

Không cần tinh mắt cũng dễ dàng ghi nhận những cố gắng cô lập Hoà Thượng Viện Trưởng; dập tắt tiếng nói của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế; làm suy thoái nội lực Giáo Hội; bôi bẩn cá nhân những vị lãnh đạo Giáo Hội…………

Trong lúc Pháp nạn còn tiếp tục thì cơ cấu tổ chức cũng như sự điều hành Giáo Hội không thể quan niệm như “thời bình”. Hiểu được như vậy chúng ta sẽ cảm kích sự quyết định quả cảm “chẳng đặng đừng” của chư tôn lãnh đạo Giáo Hội. Điều đó có thể mất ít nhiều thời gian để nhận thức như lời Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác hồi âm bức Tâm Thư của Hòa thượng Thượng thủ Thích Tâm Châu:

“Giáo Hội có phần xáo trộn nhưng tin rằng bất cứ ai thật lòng với dân tộc và đạo pháp sẽ từ từ nhận ra sự cần thiết trong nỗ lực chấn chỉnh hiện nay”.

https://pttpgqt.org/2007/11/16/su-can-thiet-cua-giao-chi-so-9-thuong-toa-thich-giac-dang/

 
 

-của TT Viên Định, ngày 3.1.2010, trong trang nhà Thông tin Berlin bên dưới. Đặc biệt trong phần Ghi Chú cuối bài……

“……..

Thế nhưng, Cộng sản không chịu dừng tay, lại tìm cách khác, tinh vi hơn, đánh phá GHPGVNTN mới phục hoạt này.

Nghị Quyết 36, năm 2004, được triển khai, thi hành, nội công, ngoại kích, tiếp tục đánh phá GHPGVNTN.

Rút kinh nghiệm những sai lầm năm 1981, không tiêu diệt được GHPGVNTN. Lần này, không những đánh phá về nhân sự, Nhà cầm quyền cộng sản còn đánh phá về mặt pháp lý và uy tín, nhằm biến tướng con đường Bát chánh của GHPGVNTN, để thích hợp sử dụng trong hoàn cảnh mới.

1- Mục tiêu đánh phá trước nhất nhắm vào Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Bịt được cái loa này, thì việc thực hiện các việc khác dễ dàng hơn.

2- Từ năm 2004, những nguồn dư luận, ý kiến, bất lợi cho GHPGVNTN, không biết do các thành viên trong Giáo hội đưa ra, hay từ bên ngoài xâm nhập, đã lan truyền, luân lưu trong các thành viên GHPGVNTN trong cũng như ngoài nước. Ngay cả những thành viên lãnh đạo cao cấp trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng có vị tuyên truyền, cổ động những tư tưởng kỳ lạ này, chẳng hạn như:

- “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước đã hoạt động trở lại, không cần Phòng Thông Tin Quốc Tế bên ngoài nữa”.

- “Tiếng nói của Chư Tăng mà phải thông qua Cư Sĩ (Cư sĩ Võ Văn Ái, Giám Đốc PTTPGQT ) là không đúng”.

- “Hãy hoá thân, lấy Ban Đại Diện GHPGVN, thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, làm Ban Đại Diện GHPGVNTN, không nên thành lập Ban Đại Diện mới”.

- “Thiền Sư Nhất Hạnh về Việt Nam hợp tác sẽ thu hút giới thanh niên, trí thức, ủng hộ cho nhóm Cộng sản cấp tiến, đánh bại nhóm cộng sản thủ cựu. Chỉ có nhóm Cộng sản thủ cựu và Thiên chúa mới chống Thiền sư Nhất Hạnh, còn Phật giáo thì nên ủng hộ Ngài……”

- “Việt Nam ngày nay đã đổi mới, không còn Cộng sản như trước nữa. Mỹ là kẻ thù còn bắt tay hợp tác làm ăn với Việt Nam, chúng ta là người Việt Nam sao không về hợp tác làm ăn…”.

3- Dùng người của GHPGVNTN vận động các thành viên ly khai GHPGVNTN để thành lập Giáo hội mới.

4- Tiến hành nhũng cuộc vận động hoà giải, hoà hợp với Nhà cầm quyền cộng sản trong các vấn đề từ thiện, văn hoá, giáo dục…

5- Lập đàn giải oan, Hội thảo, tổ chức Đại lễ Phật Đản Vesak năm 2008, v.v… (xin nhấn mạnh)

 
 

III- Kết luận: Giáo Chỉ Số 9, do Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống ban hành, đã cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:

 
 

Năm 1981, nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đã làm trụ cột, kiên cường, duy trì, gìn giữ, nên GHPGVNTN mới không bị nhà cầm quyền Cộng sản tiêu diệt.

Từ năm 2004 đến 2008, cũng nhờ nhị vị Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ làm trụ cột, GHPGVNTN mới được duy trì, tồn tại đến ngày nay.

……..


Giáo Chỉ số 9 không nhắm loại bỏ ai như có số người xảo ngôn vu cáo. Giáo Chỉ số 9 chỉ củng cố tổ chức, đề cao nguyên tắc, đường hướng, kiện toàn pháp lý thành lập Văn Phòng II Viện Hoá Đạo hải ngoại thích nghi giai kỳ mới mà thôi !

Giáo Chỉ số 9 chỉ khai triển Giáo Chỉ số 2, cũng do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, ban hành năm 2005, nhằm củng cố, chấn chỉnh nhân sự Văn Phòng I Viện Hoá Đạo GHPGVNTN trong nước, để ứng phó với tình hình một số thành viên trong Giáo hội đã từ chức, bất hợp tác, vì thay đổi lập trường. 

 

Hòa thượng Thích Quảng Độ 釋廣度
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang

Thời gian qua, từ năm 2004 đến năm 2008, những tổ chức có lập trường, đường hướng khác với lập trường của GHPGVNTN, đã dùng danh xưng của GHPGVNTN để làm những việc hoà hợp, hoà giải, liên kết với Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, gây ra nhiều sự hiểu lầm trong dư luận và quần chúng Phật tử trong và ngoài nước.

Những tổ chức này, không được Viện Hoá Đạo phê chuẩn công nhận, theo Điều thứ 36, Chương thứ 9 tại Hiến Chương GHPGVNTN. Đương nhiên, các tổ chức này không có tư cách, không phải là đơn vị thành viên các Chi Bộ Hải ngoại của GHPGVNTN.

Những Tổ chức, Giáo hội, không liên hệ hành chính, không trực thuộc Viện Hoá Đạo trong nước, dưới sự lãnh đạo của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, lại dùng danh xưng của GHPGVNTN, là những Tổ chức, Giáo hội tiếm danh, dưới sự chỉ đạo của các thế lực vô minh, nhằm mục đích phá hoại uy tín của GHPGVNTN truyền thống, ……..

 

GHI CHÚ CẦN BIẾT :

 

……

I. Một trích đoạn trong bản Phúc trình Phật sự của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng Thống, viết từ Huế gửi Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo ngày 8.9.2007 để rõ hơn về nhóm Thân hữu Già Lam trong và ngoài nước thông qua các vị tiêu biểu như TT. Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, các Đạo hữu Trần Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường:

“Một số Phật tử ở Úc và Hoa kỳ, có gọi điện về thăm và nhân tiện, bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất, đang là Thành viên Hội đồng Điều hành GHPGVNTN/HN tại Úc và Hoa kỳ, lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là vì sao ?

……

II. Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội, trong thư trả lời Phật tử hải ngoại, cũng chú ý đến việc này và cho biết nhiều chi tiết quan trọng trong việc biến tướng GHPGVNTN nhằm thoả hiệp với nhà nước Cộng sản mà đứng đầu là vai trò TT Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, TT Đức Thắng, TT Thanh Huyền, các Phật tử Bùi Ngọc Đường, Huỳnh Kim Quang, Vĩnh Hảo…:

“Chúng tôi xin xác nhận mấy việc :

“1. Vào khoảng năm 2004-2005, khi Ðại Hội của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ được thành công (nhờ Giáo Chỉ, Ðạo Từ của Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Huấn Từ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng VHĐ lưu nhiệm tất cả). Trong một cuộc họp tôi có trình lên Ban Chỉ Ðạo Viện Hóa Đạo ai cũng vui mừng, lúc đó TT Tuệ Sỹ có nói: “Thành công gì mà thành công ! Mọi việc người ta sắp xếp (nhân sự) đâu đó rồi tự nhiên Huấn Từ, Ðạo Từ ở đâu rớt xuống làm hỏng việc của người ta hết ! Ðây rồi họ (ý nói quý Thầy và các Phật tử: Tâm Huy [Huỳnh Kim Quang], Vĩnh Hảo, Bùi ngọc Ðường, v.v... ở Hoa Kỳ) sẽ từ chức hết chứ thành công gì mà thành công !”.

Thấy tình hình “căng” quá tôi và TT Thích Viên Ðịnh (Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo) cũng đứng dậy ra về. Khi xuống tới cầu thang, TT Viên Ðịnh có nói với tôi: Tôi không ngờ Thầy Tuệ Sỹ lại thất kính với Ðức Tăng Thống và HT Viện Trưởng như vậy !

………..

5. Nhiều Thầy và Phật tử ở hải ngoại qúy tài làm thơ và dịch kinh của TT Tuệ Sỹ, cũng như ủng hộ đường lối, lập trường của Tuệ Sỹ trước kia [khi chưa thay đổi], nên khi thấy TT Tuệ Sỹ không có tên trong Hội đồng Viện Hóa Ðạo vào năm 2005 nữa, thì cho rằng HT Viện Trưởng độc tài, loại bỏ Thầy Tuệ Sỹ. Sự thật, HT Viện Trưởng có Chỉ Ðạo TT Viên Ðịnh mời TT Tuệ Sỹ về Chùa Giác Hoa họp Viện Hoá Đạo, nhưng TT Tuệ Sỹ đã lấy cớ “Nhập Thất” không đến, nhưng sau đó lại đi Nha Trang dự đám tang Ni sư Tâm Ðăng viên tịch, nên HT Viện Trưởng đã chỉ đạo cho tôi ra Nha Trang để thỉnh TT Tuệ Sỹ giữ chức Chủ Tịch Hội Ðồng Phiên Dịch Viện Tăng Thống và tấn phong TT lên Hòa Thượng, nhưng TT đã từ chối……..

III. Tường trình từ Huế về “Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ sỹ với GHPGVNTN” của Huynh trưởng Lê Nguyễn Minh Đức :

- Giai đoạn 1: Loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao để chiếm vị thế : Như trên chúng ta thấy, từ lâu Thầy Tuệ Sỹ đã có quan hệ với Chính Quyền, nắm bắt được ý đồ của Chính Quyền là muốn loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao. Để gây áp lực với Nhị Vị Lãnh Đạo

Thầy đưa ra chiêu bài “đăng ký” Chính Quyền để gài GHPGVNTN vào bẫy, để Nhị Vị Lãnh Đạo nản lòng mà rút lui. Nếu kế hoạch nầy thành công, dĩ nhiên Phó Viện Trưởng Thích Tuệ Sỹ sẽ nghiễm nhiên ngồi vào ngôi vị lãnh đạo tối cao GHPGVNTN như cả Thầy lẫn chính quyền mong nuốn.

……

- Giai đoạn 4: Khi Giáo hội tan rã, Thầy sẽ đứng ra tổ chức lại Gíáo hội: Đây là tham vọng cuối cùng. Tham vọng nầy đã thể hiện trong câu nói khi Thầy vận động Hòa thượng Thiện Hạnh nghỉ việc: “Ôn nghỉ việc đi rồi cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát, sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”.

Vì tham vọng ấy mà Thầy đã im lặng ( hay nói cách khác là ngấm ngầm hổ trợ ) để cho Thân Hữu Già Lam, Về Nguồn, Tăng Ni Hải Ngoại suy tôn Thầy, tích cực chống lại GHPGVNTN. Vì tham vọng ấy mà Thầy bảo bọc nuôi dưỡng, dạy dổ Gia Đình Phật Tử của nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai để hậu thuẩn cho Thầy hôm nay và mai sau”.

http://thongtinberlin.de/thoisu/giaochiso9cuunguyghpgvntn.htm

Do sự chấn chỉnh lại nhân sự GH thông qua Giáo chỉ số 9, có thể vì Thầy Tuệ Sĩ không còn đảm nhận chức vụ nào trong GH, một số vị tu sĩ luôn hết lòng xưng tụng Thầy, ở Âu châu như Viên giác -Đức-, Khánh Anh -Pháp-, Úc, Hoa kỳ…đã tách ra khỏi GH, cùng nhau thành lập tổ chức mới lấy tên GHPGVNTN Liên châu mà Phật tử thường gọi là “Về Nguồn”…..

https://thuviengdpt.info/tieu-su-co-hoa-thuong-thich-ho-giac/

 
 

*HT THÍCH QUẢNG ĐỘ.

 
 

Xin ghi lại một vài sự kiện liên quan đến Ngài:

-Bị đày cùng Thân Mẫu về Thái Bình, Bắc Việt. Sau khi Thân Mẫu qua đời, Ngài tự ý quay về Sài gòn sau 10 năm bị giam lỏng.

-Bị Tù vì Cứu trợ nạn nhân bị lũ lụt…

“Điển hình là tháng 5 năm 1994 khi giáo hội tổ chức cứu trợ đồng bào tỵ nạn bão lụt miền Tây thì chính quyền ra lệnh bắt phái đoàn gồm 60 tăng ni và 300 Phật tử. Trong vụ này Hòa thượng Thích Quảng Độ bị kết án năm năm, Thượng tọa Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban và cư sĩ Nhật Thường bị ba đến năm năm tù.”

-Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9, khơi mào một số vị quay lưng…

-Được Hội đồng Lưỡng viện cung thỉnh vào chức vị Tăng Thống: Đệ Ngũ Tăng thống.

-Ban hành Giáo chỉ số10, GH bị phân hóa trầm trọng!

-Vấn đề Sư Giác Đẳng chiếm đoạt tài sản GH.

Một vài trang mạng trích lại đính kèm để tiện biết tại sao….?

 
 
 

*GIÁO CHỈ SỐ 10:
-VẤN ĐỀ PHẠM GIỚI CỦA HT THÍCH CHÁNH LẠC.

 

“…..

‘Phạm trọng giới’

Theo nội dung bản Cáo bạch được viết ở Sài Gòn ngày 30/8/2013, lí do từ nhiệm liên quan tới vấn đề đạo đức của nhân vật được cử trọng trách dẫn dắt tổ chức tại hải ngoại.

Hòa thượng Thích Chánh Lạc bị cáo buộc “vi phạm trọng giới Dâm và Vọng với những bằng chứng cụ thể, minh bạch không thể chối cãi,” bản Cáo bạch viết.

Tuy nhiên, dường như đã có sự bất đồng gay gắt giữa các lãnh đạo của Giáo hội trong việc xử lí vụ việc này.

Tổng vụ trưởng Tổng vụ tăng sự “ba lần dâng thỉnh nguyện thư” yêu cầu cho Hòa thượng Chánh Lạc nghỉ việc, điều mà Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn chấp thuận.

………

Tuy nhiên, Viện trưởng Viện Hóa đạo và Chánh thư kí Viện Tăng thống “quyết lưu giữ” Hòa thượng Chánh Lạc và còn muốn Hòa thượng sẽ là “cố vấn Văn phòng II Viện Hóa đạo”, theo bản Cáo bạch.

Những khác biệt quá lớn trong cách thức xử lí vụ việc khiến Hòa thượng Thích Quảng Độ tuyên bố từ nhiệm, bởi ngài “không thể chấp nhận những việc làm trái với Hiến chương của Giáo hội để bảo vệ một vị tăng phạm giới”.

Bản Cáo bạch cũng nhắc tới các cuộc tự thiêu của các thành viên Giáo hội kể từ sau 1975 tại Việt Nam, sự hy sinh nhằm “bảo vệ đạo pháp và dân tộc”, điều mà Hòa thượng Thích Quảng Độ nói ngài “không thể phản bội lại”. ..”

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/09/130902_thichquangdo_tu_nhiem

“Ngày 9 tháng 12 năm 2013, Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Giáo chỉ số 10 thông báo chấm dứt chức vụ Viện trưởng Viện Hóa đạo của Thích Viên Định, Chủ tịch Văn phòng II của Thích Viên Lý với lý do bất tuân Tăng thống, đồng thời bổ nhiệm nhân sự mới. Thành viên giáo phẩm của Giáo hội còn lại rất ít người.[33] Năm 2014, Thích Viên Định, Thích Viên Lý và một số người bất mãn khác cho rằng Tăng thống Thích Quảng Độ đã vượt quá quyền hạn Tăng thống, nên đã thành lập Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tách khỏi giáo hội. Tăng đoàn tôn Hòa thượng Thích Thiện Hạnh (tại Huế) làm Thượng thủ, Thích Chánh Lạc làm Chủ tịch Hội đồng giáo phẩm, Thích Viên Định làm Viện trưởng Hội đồng điều hành. Như vậy sau hai sự kiện Giáo chỉ số 9 và số 10, cùng với thực tế là các Giáo hội PGVNTN tại châu Úc, Mỹ, châu Âu đã hoạt động có tính độc lập, thì GHPGVNTN gần như không còn hoạt động nào rõ ràng từ sau năm 2014.” 

https://thuvienhoasen.org/images/file/FlmuExUS2AgQAN0S/giao-hoi-phat-giao-viet-nam-thong-nhat.pdf

Ngài từ nhiệm chức vị Tăng Thống vì không thể thuận theo ý của HT Viên Định, Viên Lý…Nhưng sau đó do đa số chư Vị yêu cầu, Ngài trở lại ngôi vị Tăng thống.

 

“Một loạt lãnh đạo cao cấp tại hải ngoại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã ký thỉnh nguyện thư 'cúi xin' Hòa thượng Thích Quảng Độ rút lại quyết định rời khỏi vai trò Tăng thống.

Trong một thỉnh nguyện thư công bố hôm 2/9, tổng số 12 tăng lữ, quan chức cao cấp trong giáo hội từ Hoa Kỳ, Canada và Pháp, đã cùng ký thư “cúi xin ngài tiếp tục vai trò Tăng thống của Giáo hội” và cam kết “xin kính nguyện khâm tuân mọi hướng dẫn và bất cứ quyết định gì của ngài”.

Trước đó, Hòa thượng Thích Quảng Độ nói lý do dẫn đến quyết định từ chức là do bất đồng giữa ngài với một số lãnh đạo trong giáo hội liên quan tới vấn đề đạo đức của nhân vật được cử trọng trách dẫn dắt tổ chức tại hải ngoại.

Theo bản cáo bạch của Hòa thượng Thích Quảng Độ, hai quan chức của giáo hội ở trong nước cùng một lãnh đạo ở hải ngoại đã không những không chấp nhận ý định của Tăng thống trong việc muốn cách chức một vị giáo chức, mà còn muốn đưa người này lên giữ chức Cố vấn Văn phòng II Viện Hóa đạo.

Chia rẽ ở hải ngoại?

Bản cáo bạch cũng nêu đích danh Hòa thượng Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký Văn phòng II Viện Hóa đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội tại Hoa Kỳ là người trình bày với Tăng thống về việc “đã thỉnh ý chư tăng cả năm châu lục và tất cả đã đồng tình lưu giữ Hòa thượng Thích Chánh Lạc và cung thỉnh Hòa thượng Chánh Lạc lên ngôi vị Cố vấn Văn phòng II Viện Hóa đạo”.

Nay, trong thư thỉnh nguyện người ta không thấy tên của Hòa thượng Thích Viên Lý.

………

Nhật báo Người Việt đóng tại California, Hoa Kỳ nói trong cuộc tiếp xúc ngắn mới đây với báo này, Hòa thượng Thích Viên Lý nói ông “cần thỉnh ý chư tôn trưởng lão Hội đồng Lưỡng viện”, và “xin được thỉnh ý Hòa thượng Quảng Độ”.

Tuy nhiên, “cho dầu bất cứ quyết định ấy là gì, tôi cũng sẽ khâm tuân quyết định của Hòa Thượng,” Hòa thượng Thích Viên Lý được Người Việt dẫn lời.”

Sư Viên Lý nói “khâm tuân“ nhưng sau đó… “bất tuân!” 

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/09/130903_thinh_nguyen_thu_gui_thich_quang_do

 
 

Sư Thích Chánh Lạc (Cuong Kim Le) bị tòa tuyên án phạt 4.8 triệu Đô la về tội quấy rối tình dục….

 
 

'Thầy Quảng Độ là bậc tu hành bất khuất vì đạo pháp'

  • Bùi Văn Phú

  • Gửi đến BBC News Tiếng Việt từ California

26 tháng 2, 2020

………….

Không còn tiếng nói bất khuất của Hoà thượng Thích Quảng Độ, nội tình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có sẽ còn mạnh để lên tiếng đòi quyền tự do tôn giáo cho Việt Nam và bảo vệ được sự độc lập với nhà nước trong các sinh hoạt tôn giáo, khi mà đạo pháp ngày một suy đồi giữa những ngôi chùa được dựng lên, tuy nguy nga hoành tráng nhưng thực ra chỉ là những tụ điểm du lịch hơn là nơi tín đồ đến để thờ phượng, cầu nguyện hay tu tập theo Phật pháp.

Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.

https://www.bbc.com/vietnamese/forum-51610241

………………..

 
 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

90 Trần Huy Liệu,
Phường 15, Quận Phú Nhuận,
TP Saigon
Phật lịch 2557
Số: 10/VTT/GC/TT

 

GIÁO CHỈ ĐỆ NGŨ TĂNG THỐNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

– Căn cứ Điều Thứ 11, Chương Thứ Tư của Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ban hành ngày 4 tháng 1 năm 1964, được tu chỉnh lần sau cùng ngày 12 tháng 11 năm 2011;

– Căn cứ Điều 5, Chương II của Qui Chế Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương đã được ban hành năm Quý Sửu, Phật Lịch 2517, dương lịch 1973;

– Căn cứ vào tiến trình dân chủ hóa Đất Nước và những diễn biến của Thế Giới cũng như trong Khu Vực, Giáo Hội cần có những đáp ứng kịp thời để đồng hành cùng Dân Tộc; 

– Căn cứ vào hiện tình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Xét rằng tại Quốc Nội: 

– Trong thời gian gần đây, Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đã tự ý cùng vài người thân tín quyết định những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống;

– Hủy bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật, vô hiệu hóa Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong Pháp nạn hiện nay;

– Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có.

Những sự kiện nêu trên vừa vi phạm Hiến Chương và Truyền Thống của GHPGVNTN, sẽ đưa đến nạn độc tài, phe phái, để khuynh loát Giáo Hội trong hiện tại và tương lai.

 Xét rằng tại Hải Ngoại: 

 – Kể từ khi được bổ nhiệm Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Viên Lý đã đi ngược lại Đường Hướng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mà cụ thể nhất là việc mời Tu Sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lên đài truyền hình IBC của Hòa thượng thuyết giảng, mời tham dự Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và cố tình đề cử Tu Sĩ nầy vào hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội, nhưng đã bị các thành viên của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo phản đối.

– Hành động trên đây của Hòa Thượng Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo là biểu hiện sự cấu kết với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong chiều hướng hòa hợp, hòa giải với chế độ Cộng Sản hiện nay.

NAY BAN HÀNH GIÁO CHỈ :

ĐIỀU I:

– Kể từ hôm nay, chấm dứt chức vụ Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, của Hòa Thượng Thích Viên Định ;

– Thỉnh cử Hòa Thượng Thích Như Đạt, Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo vào ngôi vị Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

ĐIỀU II:

- Hòa Thượng Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Như Đạt có nhiệm vụ kiện toàn thành phần nhân sự Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong thời gian sớm nhất đệ trình Viện Tăng Thống tấn phong.

ĐIỀU III:

– Kể từ hôm nay, chấm dứt chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, và Chủ Tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, của Hòa Thượng Thích Viên Lý ; 

– Hòa Thượng Thích Trí Lãng, Phó Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, được thỉnh cử vào ngôi vị Quyền Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN.

ĐIỀU IV:

- Hòa Thượng Quyền Chủ Tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo Thích Trí Lãng có nhiệm vụ kiện toàn thành phần nhân sự Văn Phòng II Viện Hóa Đạo trong thời gian sớm nhất đệ trình Viện Hóa Đạo, để Viện Hóa Đạo trình lên Viện Tăng Thống duyệt y.

ĐIỀU V:

- Giáo Chỉ nầy có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Mọi Quyết Định trái với Giáo Chỉ nầy đều hủy bỏ.

ĐIỀU VI:

- Chư Tôn Giáo Phẩm thuộc Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN và các Đương Sự có tên trong Giáo Chỉ nầy chiếu nhiệm vụ thi hành.

ĐIỀU VII: 

- Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế có nhiệm vụ phổ biến Giáo Chỉ nầy.

Phật Lịch 2557,
Thanh Minh Thiền Viện ngày 9 tháng 12 năm 2013

Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn ký)
Sa Môn THÍCH QUẢNG ĐỘ

Ghi chú của Viện Tăng Thống:

Dù được lệnh Đức Tăng Thống, nhưng Văn phòng Viện Hóa Đạo không chịu giao nộp khuôn dấu nên phải dùng ấn tín riêng của Đức Tăng Thống cho Giáo chỉ này.

https://www.ghpgvntn.net/giao-chi-so-10-cua-duc-de-ngu-tang-thong-thich-quang-do/

 
 

*SƯ GIÁC ĐẲNG ĐOẠT TÀI SẢN GH. VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TAMMY TRAN GIÚP GH ĐƯA SỰ VIỆC RA TÒA…

 

TIN TỨC PHẬT GIÁO OCTOBER 22, 2018 AT 3:18 PM

PARIS, ngày 22 tháng 10 năm 2018 (PTTPGQT) — Văn phòng Luật sư The Tammy Tran toạ lạc tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế hai (2) văn kiện Thông tin và diễn tiến vụ kiện Thượng Tọa […]

Sư Thích Giác Đẳng là Đệ tử Đại Lão HT Thích Hộ Giác, vị Phó Tăng Thống hết lòng vì GH trong mấy chục năm qua, phụ trách xây chùa Phật Quang và chùa này sẽ chính thức thuộc về GH. Trong khi chờ GH được chính phủ bản xứ cấp phép sinh hoạt hợp pháp, Sư Giác Đẳng do cao ngạo, bất mãn…. đã cấu kết với thân tín, bán chùa làm của riêng!

Thông bạch của Viện Hóa Đạo về Hiện tình Văn phòng II Viện Hoá Đạo

TIN TỨC PHẬT GIÁO 

PARIS, ngày 18.8.2015 (PTTPGQT) – Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được bức Thông bạch của Viện Hóa Đạo về Hiện tình của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, qua đó đề cập nhiều vấn đề, đặc biệt là Thông báo của Thượng tọa Thích Giác Đẳng và Tuyên bố Chung của nhóm ly khai Giáo hội.

Xin mời xem toàn văn Thông bạch ấy sau đây:

 
 

THÔNG BẠCH
VỀ HIỆN TÌNH VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
———————–
QUYỀN VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

 
 

TUYÊN BỐ CHUNG
———————–
Về nhân sự của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
 và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ

 
 

………….

Viện Hóa Đạo xin trình bày những diễn tiến về tình hình Văn Phòng II/Viện Hóa Đạo như sau:

I/. CĂN NGUYÊN SỰ TỪ CHỨC CỦA TT. THÍCH GIÁC ĐẲNG:

Kể từ khi Thượng Tọa Thích Giác Đẳng được thỉnh cử vào chức vụ Quyền Chủ Tịch VPII Viện Hóa Đạo (13.6.2014) đến nay đã hơn một năm, Thượng tọa đã đặt VPII Viện Hóa Đạo ra ngoài sự điều hành của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Muốn tìm hiểu sinh hoạt của VPII/VHĐ, Giáo Hội phải nhờ vào ba nguồn khác nhau: Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, qua mạng internet, hay những Phật Tử thân cận. Giáo Hội lại gặp thêm trở ngại vì trong suốt 4 tháng qua Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế không còn báo cáo Phật sự VPII/VHĐ thường xuyên như trước kia.

………………….

Thời hạn 2 tuần lễ đã qua, thay vì báo cáo cụ thể cho Viện Hóa Đạo theo tinh thần Thông Tư Số 34 thì Thượng Tọa Chủ Tịch VPII đã nhờ Huynh trưởng Cao Văn Hiền ở chùa Từ Bi, thành phố Dallas, Hoa kỳ, đem thư dọa Từ Chức ký ngày 1.8.2015 về Thanh Minh Thiền Viện trình thẳng lên Đức Tăng Thống. Trong thư ấy có những điều cơ bản như sau:

Kể từ khi Cố Hòa Thượng Viện Trưởng VHĐ viên tịch, con đã gặp rất nhiều khó khăn từ GS Võ Văn Ái và Viện Hóa Đạo trong nước. Tuy vậy con vẫn cố gắng kham nhẫn và tìm cách giải quyết để tránh sự đối đầu giữa Viện Hóa Đạo và VPII. Nếu bản thân con gây trở ngại cho đại cuộc thì con sẳn sàng từ chức và tiếp tục hậu thuẫn Giáo hội. Con tuyệt đối tuân hành những chỉ thị của Ngài.

Đức Tăng Thống thông báo thư này cho Viện Hóa Đạo và Ngài kết luận: Thượng tọa không giải trình được việc chùa Phật Quang, vấn đề tài chánh và hai vụ cứu trợ Phi Luật Tân và Nepal nên làm eo để dọa tôi đấy. Ba ngày sau (04.8.2012) Thượng Tọa Giác Đẳng gởi Thư Từ Chức chính thức lên Đức Tăng Thống. Thư Từ Chức có những điều cơ bản sau:

Con, tỳ kheo Giác Đẳng thấy sự bế tắc trong hiên tình Giáo Hội chỉ còn cách từ nhiệm tất cả những chức vụ trong Giáo Hội. Xin Giáo Hội sớm cử người thay thế.

………………………….

 
 

Vì Thông Bạch khá dài, xin mời vào trang nhà đính kèm để biết rõ sự việc…

https://pttpgqt.org/2015/08/18/thong-bach-cua-vhd-ve-hien-tinh-van-phong-ii-vien-hoa-dao/

* XIN MỜI VÀO trang mạng đính kèm bên dưới để biết về  5 VỊ TĂNG THỐNG CỦA  GHPGVNTN.

 https://phathocdoisong.com/tang-thong-ghppgvn-thong-nhat-qua-cac-thoi-ky.html

 
 
 
 

5 đời Tăng thống GHPPGVN Thống Nhất qua các thời kỳ

Kể từ năm 1964 tính đến năm 2020, trải qua 56 năm. Vị lãnh đạo tối cao nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, gồm những ai trong 5 đời Tăng Thống.

  • Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội PGVN qua các thời kỳ

  • Pháp Chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ

Danh từ Tăng Thống là vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội, vị Tăng được Giáo hội suy tôn làm người đứng đầu của trong một đoàn thể Tăng già để quản lý Tăng sự.

Danh xưng Tăng thống là vị lãnh đạo cao nhất trong một nước, hoặc một giáo hội, chức danh này do tổ chức GH quyết định suy cử. Nói cách khác dễ hiểu như một vị Tổng Thống.

 
 

5 đời Tăng Thống gồm:

Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973) Đệ nhất Tăng thống
Hòa thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979) Đệ nhị Tăng thống
Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905-1991) Đệ tam Tăng thống
Hòa thượng Thích Huyền Quang (1919-2008) Đệ tứ Tăng thống
Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928-2020) Đệ ngũ Tăng thống

Vừa qua Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viên tịch vào ngày 22/2/2020, Trụ thế: 93 năm, 73 Hạ lạp. Ngày 24-5-2019, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã ban hành Quyết định số 14-VTT/TT/QĐ thỉnh cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ thay thế Đức Tăng Thống vì trọng bệnh để lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở vị trí Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống. Ngày 7-4-2020 sau nhiều lần HT Đệ ngũ Tăng thống triệu mời, Hòa thượng Tuệ Sỹ đã cung kính phụng thừa sự ủy thác này và đảm nhiệm.

Đồ họa: Trọng Hoàng

 
 

*HT THÍCH HỘ GIÁC.

 

Đến Hoa Kỳ định cư năm 1982, Ngài cùng với những cựu thành viên của hội đồng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, vận động thành lập Hội đồng Lãnh đạo Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại vào năm 1983. Ngài được Hội đồng thỉnh cử làm Tổng Thư Ký. Ngài cũng là chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Năm 1992, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại được thành lập tại Hoa Kỳ. Đại lão HT Thích Huyền Quang ủy nhiệm Ngài làm chủ tịch Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, kiêm Chủ tịch Hội đồng điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại

Năm 1997 Ngài là Tăng thống của Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam tại hải ngoại.

Năm 2008, Ngài được đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang chọn làm làm Phó Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/funeral-thich-ho-giac-houston-hv-12142012114805.html

Thêm một chi tiết về Ngài.

‘‘…………

Năm 1992, khâm tuân lời kêu gọi đức Đệ III Tăng Thống, ngài cùng đông đảo chư tôn đức và quý cư sĩ thành lập Uỷ Ban Vận Động và hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. Không lâu sau đó, cơ cấu nầy được Đại Lão Hòa Thượng Đệ IV Tăng Thống Thích Huyền Quang ủy nhiệm vai trò Văn Phòng II Viện Hóa Đạo mà ngài là Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành cho đến khi ngài viên tịch.

Năm 2008, do sự thỉnh cầu của Hội Đồng Lưỡng Viện, đức Đệ IV Tăng Thống ban hành giáo chỉ suy cử ngài lên tôn vị Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.” (Giáo chỉ 01/VTT/GC/TT. Ký ngày 20.2.2008).

https://thuviengdpt.info/tieu-su-co-hoa-thuong-thich-ho-giac/

 
 

*GIÁO HỘI BỊ PHÂN HÓA TRẦM TRỌNG.

 

-Khi Đệ Tứ Tăng Thống ban hành Giáo chỉ số 9 nhằm ổn định nhân sự, chư vị Tuệ Sĩ và một vài vị HT không còn trong danh sách…từ đó, GHPGVNTN Liên châu, bao gồm phần lớn chùa ở Âu châu (trong đó Viên giác ở Đức và Khánh Anh ở Pháp là…“đầu tàu” (ngoại trừ Thầy Thích Trí Minh bên Na Uy không gia nhập), cùng một số bên Úc, Canada (do Viên Giác ở Đức điều hành) và Hoa Kỳ mà Phật tử thường gọi là Về Nguồn, như đã thưa. 

Trang nhà Thông Tin Berlin đã đăng bài viết của HT Viên Định nêu trên, giải thích rất rõ về Giáo chỉ số 9, trong đó liên quan đến Thầy Tuệ Sĩ!

Dù vẫn chọn danh xưng GHPGVNTN nhưng không còn liên hệ chi với GH và Tăng Thống. Thậm chí Sư Thích Quảng Ba -Úc- sau khi về VN tìm gặp rồi khi trở ra hải ngoại, tuyên bố rằng Đệ Tứ Tăng Thống đã “lẫn(?)”, Giáo chỉ là do…“người khác” soạn thảo..v..v… Phóng viên Ỷ Lan đã gọi đ/t về VN thăm và xin phỏng vấn, Ngài xác định Giáo chỉ này do Ngài ban hành…v…v…tất cả có ghi lại trong trang nhà PTT Phật giáo QT. 

Nếu trước kia các Thông điệp của Tăng Thống: Chúc Tết, Phật Đản, Vu Lan hoặc thông báo..v..v.. đều  đăng vào Nguyệt san, Bản tin hay trang mạng…thì nay không còn. Nhóm Về Nguồn chỉ đăng thư chúc hoặc thông báo của riêng họ, cũng không có gì khó hiểu! Chẳng hạn nguyệt san Viên Giác Hannover - Đức quốc, khi Đệ Ngũ Tăng Thống viên tịch cũng không ghi Tăng Thống….!

-Vì nhà Sư Thích Chánh Lạc bị tòa án Hoa Kỳ phạt 4.8 triệu Đôla về tội quấy rối tình dục, như đã nêu trên. Thông thường nếu là người tự trọng Sư nên tự rút lui, ít nhất trong một thời gian…dù cho rằng mình bị oan(?). Việc này cũng khó “thuyết phục người khác tin, bởi tòa án đã kết tội và Sư không chứng minh được gì cho sự trong sạch của mình!” Nên biết 4.8 triệu, một số tiền không ít và như vậy thì tội cũng không nhẹ! Trong phiên tòa này có mặt Sư Thích Viên Lý chùa Điều Ngự Nam Cali. Hoa Kỳ.

Đó là lý do  Giáo chỉ số 10 mà Đệ Ngũ Tăng Thống không thể không ban hành. Tiếc thay HT Viên Định vì quan hệ Huynh Đệ thâm tình hay còn cho đó mà đã nghe theo Sư Viên Lý (?) để rồi lại tách ra khỏi GH, thành lập Tăng đoàn GHPGVNTN, lại GHPGVNTN mà không liên quan gì đến GH như vậy cũng là “tiếm danh“ như bài viết của Ngài đăng nơi trang Thông Tin Berlin nêu trên, khi nói đến GHPGVNTN Liên châu -Về Nguồn-? Cũng có Phật tử đặt vấn đề, có phải Sư Viên Lý đã bị Sư Chánh Lạc nắm “thóp..bí mật (?)” chi đó và sợ bị khui ra nên phải bao che một ông Sư bị kết tội Dâm Vọng. Đã vậy, khi xây chùa Điều Ngự thì Sư Viên Lý thông báo, đây cũng là nơi chính thức của Văn Phòng II VHĐ, vì vậy không ít Phật tử đóng góp theo tinh thần này. Thế nhưng khi trở mặt với GH, Sư Viên Lý đã đoạt luôn chùa cùng quỹ có sẵn làm của riêng…! (PTT).

“Năm 2013, Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn tẩn xuất Hòa thượng Thích Chánh Lạc khỏi giáo hội, và gọi vị này là tăng phạm trọng giới. Tuy nhiên nhiều thành viên như Thích Viên Định (Viện trưởng Viện Hóa đạo), Thích Viên Lý (Văn phòng II) không đồng ý, thậm chí còn muốn tôn Thích Chánh Lạc làm Cố vấn Văn phòng II thay Hòa thượng Phó Tăng thống Thích Hộ Giác mới viên tịch. Vì mâu thuẫn này nên ngày 10 tháng 8 năm 2013 Hòa thượng Thích Quảng Độ ra thông báo Cáo bạch từ nhiệm, rời khỏi chức vụ Tăng thống. Tuy nhiên hai ngày sau ông chủ động tái nhiệm nắm giữ chức vụ Tăng thống.

Sau đó Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Giáo chỉ số 10 loại bỏ Thích Viên Định, Thích Viên Lý khỏi Viện Hóa đạo và Văn phòng II. Những người bất mãn với giáo chỉ này đã tách khỏi Giáo hội và lập Tăng đoàn GHPGVNTN, tôn Thích Thiện Hạnh làm Thượng thủ, Thích Chánh Lạc làm Chủ tịch Hội đồng giáo phẩm. Từ lúc này Hòa thượng Thích Quảng Độ không còn vai trò với hầu hết các hoạt động.”

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Qu%E1%BA%A3ng_%C4%90%E1%BB%99

Nếu tổ chức Về Nguồn đã kéo theo những thân cận chùa chiền của nhóm này thành lập ở hải ngoại thì việc Tăng đoàn tách ra khỏi GH tiếp theo mà ai cũng biết rằng, do quan hệ giữa các khuôn hội cũng như các tu sĩ với HT Viên Định khá chặc chẻ qua vai trò Viện trưởng Viện Hóa Đạo, các tu sĩ này hẵn vốn dĩ nặng tình cảm cá nhân và cũng không mấy để ý nhiều các chuyện “thế gian“ cho nên đã nghe lời mà chạy theo Tăng đoàn không suy xét…! Cường quyền việt cộng chụp được cơ hội mà họ mong chờ lâu nay để thẳng tay tiêu diệt GHPHVNTN, cái gai trong mắt chúng:

Thẳng tay áp lực với Trụ trì Thanh Minh Thiền Viện để không còn dám “chấp chứa” HT Quảng Độ như bao lâu nay và phải chăng HT cũng thừa nhận ra rằng trong tình cảnh hiện tại lúc đó, Ngài đến chỗ nào cũng chỉ đem gánh nặng cho chỗ đó thôi, vì vậy mà trở lại Thái Bình miền Bắc? Khoảng một năm sau quay lại Sàigòn, khi mọi chuyện cũng tạm lắng đọng, lưu trú ở chùa Từ Hiếu cũng chỉ để giữ lòng tin của những ai còn có lòng với GH, và có lẽ cũng để tạm “dung thân trong lúc tuổi già..(?)”. Những phương tiện mà Ngài dùng để liên lạc, nay đã hoàn toàn bị khống chế, không thể nào có thể hoạt động, xử dụng được nữ!

Trong bất cứ tổ chức nào mà có nhiều Sứ quân, nhất là những Sứ quân ngã mạn, đề cao khoa bảng thế tục, ưa chuộng xiêm y màu mè, khoe khoang văn hay chữ tốt..v..v.., thì sớm muộn gì tổ chức đó cũng sẽ gặp muôn vàn khó khăn khi phải đối mặt về nhân sự do bất mãn! GHPGVNTN cũng không ra ngoại lệ, vì vậy số thành viên trung kiên có thể chỉ còn đếm trên đầu ngón tay…?! 

 

-MỘT NGOẠI LỆ: CƯ SĨ VÕ VĂN ÁI.

 

Ông là Cư sĩ được Đệ Tứ Tăng Thống giao cho việc đối ngoại và điều hành Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc tế (PTTPGQT) của GH. 

Trong thời gian đầu, các công việc thuộc GH còn êm thấm, Ông đã cùng các vị Viên Lý, Giác Đẳng..v..v..chia nhau đảm nhận những Phật sự trong các dịp Lễ Hội hay những tổ chức mà Văn Phòng II VHĐ đề xướng. 

Khi GH không còn êm thấm, bị một số quay lưng thì Ông lại “trở thành tấm bia hứng chịu những mũi tên công kích, cả thù lẫn bạn!” Không phải chỉ có cường quyền việt cộng muốn “hạ” Ông mà một số Phật tử, kể cả Tu sĩ, cũng muốn “bứng” Ông ra khỏi PTTPGQT! 

Bài viết của HT Viên Định do Thông Tin Berlin đăng tải nêu trên đã cho thấy rõ việc này. Các vị Bùi ngọc Đường, Trần quang Thuận…còn yêu cầu HT Quảng Độ bãi nhiệm Ông Ái. HT đã đề nghị, đại ý, hãy giới thiệu cho Ngài một người có khả năng và tấm lòng, không cần hơn chỉ cần bằng Ông Ái, HT sẽ cứu xét ngay! Các vị này đã im lặng…..(PTT)

Tương tự, không riêng Thầy Tuệ Sỹ mà HT Viên Định đã nói đến, Sư Thích Quảng Ba “cũng nói bóng gió, Ông Ái núp phía sau Tăng Thống mà xúi…, kể cả Giáo chỉ!” (vì Đệ Tứ Tăng Thống, đã không còn minh mẫn, đã phạm lỗi vể hành chánh…v..v..? Chắc là Sư Quảng Ba không nhớ Ngài đã từng là Tổng Thư Ký rồi Viện trưởng VHĐ mà “dốt hành chánh ?” ….)

Các vị vừa nói đến có lẽ “coi thường?” sự sáng suốt và khả năng của chư Tăng Thống nên mới có những lời lẽ phạm thượng!

Cũng không thể quên việc phải nhờ đến Công lý khi Sư Giác Đẳng gian tham chiếm đoạt tài sản GH và Cư sĩ Ỷ Lan, cũng là người góp công cho PTTPGQT, được ủy nhiệm đại diện cho GH lo việc này và còn đang chờ vì Tòa án đã dời lại thời gian….

Tôi muốn ghi ngoại lệ vì theo ngu ý, ông bà chúng ta có câu nói có thể dùng cho trường hợp này chắc không sai: “Trâu cột ghét trâu ăn!” cũng như “Lưỡi không xương….!” 

 
 

*GHPGVNTN “ VẪN CÒN” HAY   “KHÔNG CÒN”?

 

Phải chăng biết trước việc xả bỏ thân tứ đại còn không xa, cũng không thể để GH bị mai một sau khi Ngài viên tịch, vì vậy mà Đệ Ngũ Tăng Thống phải tìm người ủy thác trọng trách…..

Hẵn là Ngài đã đắn đo cân nhắc và vì mạng mạch GH mà bỏ qua những bất đồng dị kiến trước kia, khi ủy thác công việc GH lại cho HT Tuệ Sỹ.

HT Tuệ Sỹ được biết đến nhiều, nhất là hải ngoại. Muốn duy trì GH thì, trong thời điểm hiện nay, có lẽ phải nhờ hải ngoại, chỉ là nhờ như thế nào, nhờ ai?

Sau khi Đệ Ngũ Tăng Thống viên tịch, HT Tuệ Sỹ đã nhờ đến nhóm Về Nguồn, đây là nhóm luôn ca ngợi HT và có phải vẫn thường liên lạc với nhau…

Hãy nhìn tổ chức Hoằng Pháp…mới đây được đưa lên trang mạng sẽ thấy gần như toàn bộ đều thuộc nhóm Về Nguồn chủ động: Nhóm Về Nguồn đã ly khai với GH, không chấp hành và không tôn trọng Đức Tăng Thống!, nay thì quay lại ngợi ca, tỏ ra thương tiếc….. “Chắc là chỉ có tư tưởng lớn (?) gặp nhau..”, hàng ngu dân như chúng tôi thì…đành chịu, không hiểu được “tâm tư” những người này! 

Có còn quá sớm chăng và phải chờ thêm thời gian (?) vì cho đến nay, không thấy HT Tuệ sỹ nhắc gì đến Văn Phòng II, đến PTTPGQT, đến vụ kiện Sư Giác Đẳng… mà Đức Đệ Tứ và Đệ Ngũ Tăng Thống luôn cưu mang, hay hai tổ chức này vẫn luôn là “cái gai” trong mắt HT Tuệ sỹ, khi có dịp thì ..“không lưu tình”?

Rồi mai đây phải suy cử Đức Tăng Thống kế nhiệm, có khi nào lại do Về Nguồn lo liệu tổ chức …và cũng có khi nào Chức vụ này trong nước sẽ không ai có thể đảm nhiệm trọng trách…v..v..?

 
 

GHPGVNTN “Vẫn Còn“ như ngày nào hay nay chỉ là danh xưng, đã “Không Còn“ vì… biến tướng, khác xưa? 

Xin mượn lời một Vị Tôn Đức đã nói trong thập niên 60 để nói với vc, đại ý: “…GH nếu bị thua thì chỉ là Chính nghĩa bị thua trước Bạo lực, không phải thua vì Bạo lực này kém hơn Bạo lực kia…” Ở đây cũng thêm lời: “GH dù bị mai một cũng không thể chấp nhận những yêu sách, bè phái, lạm dụng, tư kỷ…!”. 

Với tấm gương Đại hùng - Đại lực - Đại từ bi mà Đức Đệ Tam, Đệ Tứ và Đệ Ngũ Tăng Thống đã để lại, mong sao GH sẽ luôn vượt lên trên những bản ngã nhỏ nhen, hoàn thành sứ mạng: vì Dân tộc và Đạo Pháp!

 

Tô văn Phước



Pd Minh Đức
Vu lan – Tân Sửu. Tháng 08.2021

 

…………đọc thêm để biết, nếu có thể:
** Trang mạng định kèm, xem cho biết Ai bán VNCN! (*)
https://huongduongtxd.com/aibanvietnam.pdf

Tư liệu v/v thống nhất PG của Đỗ Trung Hiếu..
https://pttpgqt.org/wp-content/uploads/2013/12/Thong-nhat-Phat-giao_Do-Trung-Hieu.pdf
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/scale-of-a-crackdown-yl-04272015154522.html Đàn áp GH sau 30.4 RFA.
https://web.archive.org/web/20080113230834/http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=846 lập VP Hai VHĐ…

https://thuvienhoasen.org/a6720/su-kien-phat-dan-1963-bach-khoa-toan-thu-mo-wikipedia

 

(1) Vu lan – Tân Sửu. Tháng 08.2021

Đại Tá Phạm Ngọc Thảo

(2) https://www.vietnamngaymai.com/node/44539

Vũ Ngọc Nhạ

(2) https://www.vietnamngaymai.com/node/44539

(3)

(4)

(5)

(6)

 
 
 

BÀI BÊN DƯỚI LÊN QUAN ĐẾN THẦY TRÍ QUANG, CHÚNG TÔI COPY NGUYÊN BẢN, XIN TÙY NGHI..

“Chỉ có tôn giáo là đáng kể ở Việt Nam ”:

Thích Trí Quang và Chiến tranh Việt Nam

JAMES McALLISTER

Trần Ngọc Cư dịch

 
 

Tóm tắt

 

Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc. Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.

Khó có thể xem nhẹ vai trò quan trọng của Thích Trí Quang trong việc tìm hiểu quá trình diễn biến của Chiến tranh Việt Nam. Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng bạo lực đàn áp các cuộc biểu tình phản kháng của Phật giáo tháng Năm 1963, Trí Quang đã đóng một vai chủ yếu trong việc sách động và duy trì cuộc khủng hoảng chính trị lâu dài, một cuộc khủng hoảng cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Diệm vào tháng Mười Một 1963. Không chịu trở về với vị trí bên lề của trường chính trị sau khi Diệm và người em là Ngô Đình Nhu bị giết, Trí Quang tiếp tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị của Miền Nam bằng cách ban bố hay từ chối hậu thuẫn của mình cho nhiều chế độ quân nhân khác nhau, những chế độ đã điều hành quốc gia từ 1964 đến 1966.

Với khả năng hiển nhiên, bằng cách huy động cả Phật tử lẫn sinh viên tranh đấu, Trí Quang có thể đưa Miền Nam vào tình trạng vô chính phủ, chính quyền Johnson và chính phủ Miền Nam không còn lựa chọn nào khác hơn là nhìn nhận quyền lực và ảnh hưởng đáng sợ của ông. Được công nhận rộng rãi là lực tác động tinh thần và trí thức chủ yếu đằng sau phong trào tranh đấu Phật giáo, Trí Quang đã châm ngòi một loạt phản kháng mãnh liệt, một cao trào đã thực sự giành quyền kiểm soát vài thành thị miền Nam vào mùa xuân 1966. Mặc dù cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo rộng lớn không trụ được như một thế lực chính trị hùng hậu sau cuộc khủng hoảng 1966, nhưng ít, nếu có, cá nhân nào ở Miền Nam có được ảnh hưởng to lớn hơn ông trên diễn biến của cuộc chiến Việt Nam trong thời kì từ 1963 đến 1966. Đáng tiếc là, các sử gia đương thời vẫn chỉ biết được rất ít ỏi về những mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang trong giai đoạn nghiêm trọng này của Chiến tranh Việt Nam. Cũng như nhiều yếu nhân khác ở Miền Nam, những nhân vật chính trị và tôn giáo như Trí Quang rõ ràng là ít được giới sử gia về quan hệ đối ngoại của Mĩ quan tâm; những sử gia này vẫn tiếp tục dành sự chú ý ưu tiên cho tiến trình hoạch định chính sách tại Washington, chiến lược quân sự hay những nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh qua các cuộc đàm phán. Như George Herring đã nhận xét từ lâu: “Sự tương tác giữa người Mĩ và người Miền Nam Việt Nam là một trong những lãnh vực ít triển khai nhất trong kho tư liệu ngày một nở rộ về Chiến tranh Việt Nam. Người ta càng viết nhiều về cuộc chiến bao nhiêu, thì người Miền Nam càng nổi cộm vì sự vắng mặt của họ trong các sử sách bấy nhiêu, và cho đến nay hầu như vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về những quan hệ của họ với Hoa Kì” (1). Sự thiếu quan tâm của giới học giả dành cho Trí Quang và cho mối quan hệ của ông với các giới chức Mĩ là điều đặc biệt đáng tiếc bởi vì chắc chắn không thiếu gì các nguồn tư liệu trực tiếp (primary sources) để các sử gia nghiên cứu. Các giới chức Mĩ thường xuyên gặp gỡ Trí Quang suốt những năm 1964 – 1966 ; những cuộc đàm thoại này đủ cung ứng một cái nhìn toàn diện về những tín lí của ông đối với hàng loạt vấn đề. Mặc dù Trí Quang trên một số mặt nào đó vẫn còn là một nhân vật mà giới sử gia khó nắm bắt, nhưng những tương tác giữa ông và giới chức Mĩ có thể cung ứng một nguồn tư liệu không thể thiếu và chưa được sử dụng đúng mức cho việc tìm hiểu cả phong trào Phật giáo lẫn sự thất bại chính trị to lớn của Mĩ tại Miền Nam (2).

 
 
 

Trí Quang là một nhân vật gây nhiều tranh cãi vào thời cao điểm của Chiến tranh Việt Nam, và hơn 40 năm sau ông vẫn còn như thế. Gần đây, một số sử gia đã duyệt xét lại nhân vật Trí Quang và phong trào Phật giáo và đã đi đến những kết luận rất khác nhau về mục tiêu và động lực của nhà sư này. Trong một bài viết khá sôi nổi công bố năm 2004, Mark Moyar cho rằng Trí Quang “hoặc đã liên minh với Cộng sản, hoặc nếu không thì cũng nuôi hoang tưởng ông có thể chặn đứng Cộng sản mà không cần đến một chính quyền mạnh, thân Mĩ ” (3). Luận điểm đầu [tức Trí Quang liên minh với Cộng sản] rõ ràng là điều mà Moyar tin là gần với sự thật hơn. Trong cáo buộc cho rằng Trí Quang là tay sai Cộng sản, Moyar viết: “Nhìn chung, chứng liệu (evidence) đã yểm trợ cho quan điểm này, mặc dù không có bằng chứng tuyệt đối (absolute proof)” (4). Khi đưa ra luận điểm này, mặc dù với một hồ sơ tài liệu có thực chất hơn, Moyar cũng chưa hẳn đã khai mở được điều gì mới lạ cho sử học bởi vì các kí giả trong trong thời Chiến tranh Việt Nam như Marguerite Higgins, Richard Critchfield và Robert Shaplen cũng từng đưa ra luận điểm này khi họ viết về cuộc chiến (5). Tuy nhiên, như chính Moyar cũng nhìn nhận, các quan chức của chính phủ Mĩ, những người có đủ mọi lí do tự lợi (self-interested) để kết luận Trí Quang là Cộng sản, lại trước sau như một đã bác bỏ cách đánh giá này. Như các nhà phân tích của CIA đã kết luận tháng Chín 1964: “Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Trí Quang, những kẻ chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông, hay thậm chí những kẻ hoài nghi về động lực chính trị của ông, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào hiện có giữa ông và Cộng sản” (6). Giới tình báo Mĩ và Sứ quán Mĩ ở Sài gòn không bao giờ do dự trong cách đánh giá của họ về những động lực chính trị của Trí Quang, ngay cả vào thời cao điểm của cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966, mặc dù các viên chức quan trọng như Henry Cabot Lodge và Maxwell Taylor về sau này lại chấp nhận luận điểm của Moyar một cách trễ tràng và thiếu bằng chứng. Vào thời đó và cả ngay bây giờ, người ta vẫn có nhiều lí lẽ rất thuyết phục để phản bác luận cứ cho rằng Trí Quang cố tình làm tay sai cho Cộng sản hay thậm chí trên bình diện trí thức đã có thiện cảm với chương trình chính trị của MTDTGPMN. Sự thể về sau này Trí Quang bị chế độ Cộng sản hành hạ và phải sống trong tình trạng quản thúc ở Việt Nam thời hậu chiến chỉ là một trong nhiều lí do để hoài nghi luận điểm của Higgins/Moyar (7).

 
 
 

Quan điểm phê phán Trí Quang của Moyar bị chi phối bởi sự hậu thuẫn mạnh mẽ mà ông ta dành cho những người Miền Nam quyết tâm chống Cộng và chống MTDTGPMN. Một hình ảnh anh hùng và khả ái hơn nhiều của Trí Quang có thể được tìm thấy trong cuốn sách của Robert Topmiller, The Lotus Unleashed : The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966 (Hoa sen tự do: Phong trào Hoà bình Phật giáo ở Miền Nam Việt Nam, 1964-1966). Vốn có nhiều thiện cảm với Trí Quang và thường chỉ trích gay gắt việc Mĩ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, Topmiller tin rằng mục tiêu chính của cánh Trí Quang trong phong trào Phật giáo là “thành lập một chính phủ dân sự bằng các cuộc tuyển cử tự do với ý định mời MTDTGPMN tham gia một chính phủ trung lập” (8). Theo cách mô tả của Topmiller, sự va chạm giữa chính quyền Johnson và Trí Quang phần lớn có gốc rễ trong những viễn kiến và thế giới quan xung khắc nhau. Phía Phật giáo và Trí Quang quyết theo đuổi hoà bình, dân chủ và muốn thương thuyết để tức thời chấm dứt cuộc chiến. Vì chính quyền Johnson chống lại quan điểm của phe Phật giáo về cuộc chiến, theo Topmiller, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Trí Quang và người Mĩ rốt cuộc đã không đội trời chung. Mặc dù chắc chắn có nhiều điều đáng tiếp thu từ cách tường thuật của Topmiller về phong trào Phật giáo, nhưng tiểu sử Thích Trí Quang và mối quan hệ giữa ông và Hoa Kì còn nhiều chỗ phức tạp hơn những điều sử gia này muốn nói. Đặc biệt ở phần bàn về Thích Trí Quang trong thời gian trước khủng hoảng 1966, Topmiller hoàn toàn không đếm xỉa đến những chứng liệu (documentary evidence) đi ngược luận điểm của ông (9). Từ tường thuật của Topmiller, người ta không thể ngờ được rằng Trí Quang thường rất thân Mỹ và chống Cộng gay gắt, hoàn toàn không quan tâm đến những nguyên tắc phổ quát về dân chủ và tự do ngôn luận, và cực kì hiếu chiến trong quan điểm về phương sách điều hành cuộc chiến. Mặc dù hẳn nhiên là có một phong trào Phật giáo đối kháng quan trọng ở Miền Nam, nhưng người ta lại hoàn toàn sai lạc khi cho rằng “hoà bình” là một trong những mục tiêu hàng đầu của Trí Quang.

Trí Quang hiếm khi có luận điệu bênh vực cho một Miền Nam trung lập hay cổ vũ cho việc theo đuổi bất cứ một cuộc đàm phán nào với MTDTGPMN trước khi Hoa Kì và VNCH nắm được thế thắng trên chiến trường. Chắc chắn là, cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo nói chung đôi khi có bày tỏ thái độ chống Mĩ và/hoặc hậu thuẫn một giải pháp trung lập rất mơ hồ cho cuộc chiến ở Việt Nam. Tuy nhiên, cái hình ảnh quá giản lược về Trí Quang như một nhà dân chủ, dấn thân cho hoà bình với quyết tâm chấm dứt cuộc chiến càng sớm càng hay, là luận cứ không thể đứng vững cũng như cái hình ảnh một Trí Quang tay sai của Cộng sản vậy. Trí Quang chẳng phải là một người Cộng sản, mà cũng chẳng phải là một người tranh đấu vì dân chủ và hoà bình. Ông là một nhân vật bị chính trị hoá cao độ, một người nhìn hầu hết mọi vụ việc ở Miền Nam Việt Nam qua lăng kính của một cuộc xung đột cơ bản tôn giáo giữa Phật giáo và Công giáo. Trí Quang cho rằng: “Ngay cả người Công giáo tốt cũng khó được lòng dân” (10). Dù đúng dù sai, Trí Quang đã chống lại nhiều chính phủ liên tiếp ở Miền Nam vì những lí do ít liên quan hoặc chẳng liên quan gì đến việc cố tình phá hoại nỗ lực chiến tranh, như giả thuyết của Moyar, hay liên quan đến việc chấm dứt chiến tranh và thiết lập một chế độ dân chủ dân sự, như luận cứ của Topmiller. Trong khi các quan chức Mĩ muốn có một chính phủ ổn định ở Miền Nam trên hết và trước hết, thì Trí Quang lại muốn thấy một chế độ “cách mạng”, một chế độ mà ông định nghĩa là thực sự không còn ảnh hưởng của người Công giáo, tàn dư của Diệm hay Cần Lao. Tất nhiên, vấn đề chính ở đây là, Trí Quang thường hàm ý chỉ có một mình ông mới có thẩm quyền quyết định tính chính đáng (legitimacy) của các chế độ ở Miền Nam, cũng như quyền giải nhiệm những chế độ này nếu chúng không thoả mãn những đòi hỏi cuả ông. Xung đột giữa Trí Quang và chính quyền Johnson một phần lớn là vì Trí Quang muốn trở thành một nhân vật duy nhất có quyền lựa chọn lãnh đạo cho chính trường Miền Nam, chứ không phải vì quan hệ với Cộng sản, hay vì có khuynh hướng trung lập hay vì thiếu nhiệt tình chống cộng, như một số người đã gán ghép cho ông.

 
 

Thích Trí Quang và hậu quả cuả việc lật đổ Diệm

 

Những người hoạch định chính sách Mĩ ít khi bận tâm về vai trò chính trị của Phật giáo ở Miền Nam trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tháng Năm 1963, cuộc khủng hoảng rốt cuộc đã đưa đến việc lật đổ Ngô Đình Diệm vào cuối năm đó. Mặc dù các quan chức Mĩ không nghĩ rằng Phật giáo sẽ lặng lẽ trở về với vai trò phi chính trị mà Phật giáo đã giữ dưới chế độ Diệm, nhưng ít có dấu hiệu gì chứng tỏ người Mĩ quan ngại về khả năng xung đột với phong trào Phật giáo trong tương lai. Việc chính bản thân Trí Quang lãnh đạo một phong trào hầu như là nổi dậy chống chính quyền Miền Nam chưa đầy ba năm sau khi ông ta được phép tị nạn trong Toà Đại sứ Hoa Kì ở Sài gòn là điều người Mĩ không thể tưởng tượng nỗi. Dù sao đi nữa, bất chấp những lí do tự lợi khi cho Trí Quang tị nạn, chính quyền Kennedy và Đại sứ Henry Cabot Lodge Jr. cũng đã tự mình đứng hẳn về phiá Phật giáo trong cuộc tranh đấu của họ chống lại chế độ Diệm. Chính bản thân Trí Quang đã rõ ràng bày tỏ sự biết ơn của ông đối với hậu thuẫn của Mĩ. Trong thư riêng gửi cho Lodge để xin tị nạn trong sứ quán Mĩ, Trí Quang viết ông hi vọng “đất nước của tự do” sẽ không giao nộp ông cho chính phủ Diệm, “nhất là khi Hoa Kỳ đang giúp nhân dân chúng tôi gìn giữ tự do” (11). Chỉ ba tuần lễ sau cuộc đảo chánh thành công, ông hoan nghênh việc người Mĩ tiếp tục can thiệp vào nội tình Miền Nam với tất cả hăng say, không một chút e dè. Trong khi phân ưu về cái chết của Tổng thống Kennedy, Trí Quang nói với một viên chức Toà Đại sứ Mĩ rằng Hoa Kì “phải tiếp tục sử dụng và gia tăng ảnh hưởng tốt đẹp của mình để ngăn ngừa khả năng có thêm đảo chánh hay chế độ Diệm hồi sinh và để, nếu cần, bảo vệ nhân dân Việt Nam khỏi những lạm quyền của chính phủ họ”. Khi được giải thích một phát biểu như thế có thể dấy lên nỗi sợ hãi chính đáng về chủ nghĩa thực dân Mĩ, Trí Quang cho rằng Hoa Kì không nên lo sợ những luận điệu như thế bởi vì “nhân dân sẽ thực sự cảm thấy an ninh hơn khi biết Hoa Kì hành động như một người bảo hộ” (12).

Mặc dù Trí Quang không lo ngại gì về chủ nghĩa thực dân Mĩ vào tháng Mười Một 1963, nhưng từ đầu ông đã bận tâm về bản chất của chế độ Miền Nam, cái chế độ vừa thay chế độ Diệm. Thật ra, tất cả nguyên nhân căng thẳng trong tương lai giữa Trí Quang và chính phủ Mĩ đã có sẵn từ ban đầu. Chính quyền Johnson kì vọng rằng cuộc đảo chánh lật đổ Diệm sẽ dẫn đến sự đoàn kết quốc gia rộng rãi hơn và mang lại một chính phủ ổn định có khả năng theo đuổi cuộc chiến hữu hiệu hơn trước. Chỉ nội cái việc nghiêm khắc duyệt xét bản chất của chế độ Diệm, đừng nói chi đến việc thanh lọc bộ máy hành chính và quân sự, trên cơ bản sẽ mâu thuẫn với mục tiêu ổn định bởi vì hầu như mọi viên chức trong chính phủ và quân đội Miền Nam trong một cách nào đó đều có thể mang nhãn hiệu là tàn dư của Diệm (a former Diemist). Hoặc vì xác tín hoặc vì nhu cầu chiến thuật, chính quyền Johnson bác bỏ ý kiến cho rằng chính phủ Miền Nam cần được cải tổ triệt để hoặc cần phải thanh lọc nhân viên. Nhưng, Trí Quang không bao giờ chấp nhận quan niệm cho rằng cuộc xung đột tôn giáo và điều ông cho là cuộc đàn áp Phật giáo bởi bàn tay của người Công giáo là một vấn đề được giải quyết dứt khoát bằng việc lật đổ Diệm-Nhu. Mặc dù tuyên bố rằng ông sẽ thẩm định chính phủ mới trên cơ sở thành thích hoạt động, nhưng Trí Quang lo ngại rằng bản thân nhiều thành viên trong nhóm âm mưu đảo chánh vốn là người của Diệm. Ông lí giải rằng sở dĩ họ tham gia đảo chánh “bởi vì họ sợ Diệm và Nhu làm mất lòng Hoa Kì hơn là vì chính bản thân họ tin rằng chế độ cũ cơ bản là sai trái” (13). Khoảng tháng Mười Hai 1963, Trí Quang đã bày tỏ với một số viên chức Hoa Kì rằng ông sẽ hoan nghênh một cuộc đảo chính nữa nếu biến cố này có thể lật đổ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, một nhân vật quan trọng trong chế độ Diệm (14).

 
 
 

Không có gì chứng tỏ rằng Trí Quang đã đóng bất cứ một vai trò nào trong cuộc đảo chánh lật đổ Tướng Dương Văn Minh vào tháng Giêng 1964. Một số sử gia, như George McT. Kahin và Robert Topmiller, lí luận rằng Minh bị lật đổ bởi vì ông có những mưu toan chấm dứt chiến tranh và có ý định sẵn sàng chấp nhận một Miền Nam trung lập hoá. Cả Kahin lẫn Topmiller tin rằng chính Minh cũng nhận được hậu thuẫn ngấm ngầm của giới lãnh đạo Phật giáo trong việc tìm một lối ra khỏi cuộc chiến ngày một lan rộng tại Việt Nam (15). Quan điểm này có vài mức độ khả tín vì người đứng đầu cuộc đảo chính, Tướng Nguyễn Khánh, lúc bấy giờ đã tuyên bố rằng ông thực hiện cuộc đảo chánh chính vì ông lo ngại Minh và một số tướng lãnh khác có thái độ thân Pháp và nghiêng về chủ trương một Việt Nam trung lập. Tuy nhiên, lối lí giải này có vấn đề là, ít ai tưởng tượng được rằng Minh đã tích cực theo đuổi một giải pháp trung lập để chấm dứt cuộc chiến. Như David Kaiser đã nhận xét đúng đắn, cho đến nay người ta vẫn chưa thấy xuất hiện chứng liệu vững chắc hậu thuẫn cho những lí lẽ mà Nguyễn Khánh đưa ra, rằng Minh đang liên minh với Pháp để tiến tới một giải pháp trung lập cho Việt Nam (16).

 
 
 

Mặc dù cái gọi là cuộc xung đột giữa Tướng Khánh diều hâu và Tướng Minh Phật tử chủ hòa rất có thể chỉ là một cuộc xung đột có tính huyền thoại, nhưng vào đầu năm 1964, quan điểm của cá nhân Trí Quang về bản chất cuộc chiến tại Việt Nam thì gần gũi với quan điểm được công bố của Tướng Khánh hơn là gần gũi với quan điểm trung lập được rêu rao là của Tướng Minh. Trong các cuộc đàm luận với một số viên chức Mĩ vào đầu năm 1964, Trí Quang quan tâm nhiều về việc điều hành cuộc chiến có hiệu quả hơn là quan tâm đến việc chấm dứt chiến tranh. Mặc dù thoạt đầu ông chống lại quan niệm cho rằng cần phải có các vị tuyên úy trong quân đội Miền Nam, nhưng vào thời điểm này Trí Quang lại nghĩ rằng quân đội cần đến các tuyên úy Phật giáo và Công giáo để nâng cao “tinh thần chống Cộng” của binh lính (17). Cũng như Khánh và những tướng lãnh chủ chiến thân cận với Khánh, Trí Quang rất quan ngại về những nỗ lực được cho là của nước Pháp muốn tái khẳng định quyền lực ở trong vùng. Thật vậy, không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào trước sau như một bày tỏ sự thù nghịch đối với ảnh hưởng của Pháp mãnh liệt như Trí Quang. Ông nói với các viên chức Mĩ, nếu Pháp trở lại Việt Nam, điều này sẽ dẫn đến “cái chết của chính cá nhân ông cũng như dẫn đến sự trỗi dậy của Công giáo, gây phương hại cho Phật giáo Việt Nam” (18). Sau cùng, bất chấp ý nghĩa quan trọng hiển nhiên của tinh thần bất bạo động trong tín lí Phật giáo, Trí Quang ủng hộ một đường lối quân sự mạnh mẽ. Trong một buổi đàm luận với J.D. Rosenthal của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài gòn vào tháng Tư 1964, “Trí Quang chủ động nói rằng ông sẽ chấp nhận ý kiến cho quân vượt qua biên giới, tiến vào lãnh thổ Lào để cắt đứt đường tiếp tế của Việt Cộng, và ông cũng rất hồ hởi về trận dội bom ban đêm đầu tiên của Không quân Việt Nam nhắm vào các căn cứ VC. Tôi hỏi ông nghĩ gì về khả năng tấn công Bắc Việt, thì ông nói ông ủng hộ việc đó nếu cuộc tấn công có thể được thực hiện mà không lôi kéo Nga hay Trung Cộng vào cuộc chiến ” (19).

Cũng dễ hiểu là các giới chức Hoa Kì lo ngại về nhiều khía cạnh của tình hình Việt Nam vào đầu năm 1964, nhưng họ không mảy may lo ngại khả năng phong trào Phật giáo có thể chuyển qua một chiều hướng thiên trung lập và chống Mĩ. Trong một phân tích quan trọng về tình hình Phật giáo từ khi chế độ Diệm sụp đổ, Đại sứ quán Mĩ kết luận rằng tất cả các lãnh đạo Phật giáo cấp cao đều có khuynh hướng thân Mĩ và rằng dù đến một lúc nào đó phong trào có bị giới lãnh đạo “cơ hội chủ nghĩa” chi phối, thì những mục tiêu của phe Phật giáo và của Hoa Kì vẫn còn tương hợp vì cả hai phía đều sợ trung lập và sợ sự thống trị của cộng sản (20). Dấu hiệu đầu tiên về sự xung đột giữa Trí Quang và Hoa Kì loé lên là do các vụ án xử Ngô Đình Cẩn, em trai của Diệm, người đã cai trị Miền Trung bằng bàn tay sắt, và Thiếu tá Đặng Sỹ, một sĩ quan quân đội đã ra lệnh nổ súng vào các Phật tử biểu tình tháng Năm 1963. Vì sợ rằng người Công giáo Mĩ và dư luận thế giới phản đối chế độ mới nếu chế độ này có vẻ như đang tiến hành cùng một dạng thức đàn áp tôn giáo mà Diệm đã thực hiện trước đó, Lodge muốn Khánh phải tự kiềm chế và xoa dịu những cuồng nộ chừng nào hay chừng ấy. Chẳng lạ gì, chính phủ Khánh cũng sợ mang tiếng là quá dung túng người chế độ Diệm và không chịu lắng nghe những kêu đòi công lí cuả phe Phật giáo. Rõ ràng là, chính vì sự kiện cả Cẩn và Thiếu tá Đặng Sỹ đã gây tội ác trên căn cứ địa Miền Trung của ông và ở thành phố Huế mà Trí Quang đã bác bỏ bản án khoan hồng. Khi khuyến cáo Lodge uy tín của ông đại sứ sẽ bị tổn thương nếu dân chúng biết được ông chống đối việc xử tử Cẩn, Trí Quang cho rằng việc xử tử Cẩn là điều cần thiết để chứng tỏ rằng “đám người cũ của Diệm” không còn quyền lực. Trong một cuộc gặp gỡ Lodge vào tháng Tư 1964, Trí Quang cảnh báo rằng cuộc chiến đấu chống cộng và hậu thuẫn của Phật giáo dành cho Hoa Kì sẽ bị suy giảm nếu Cẩn không bị hành quyết (21).

 
 
 

Giới chức Mĩ rất quan ngại về việc Trí Quang chống đối chế độ Khánh, nhưng họ để ngoài tai những báo cáo cho rằng hành động chống đối này phát xuất từ những móc nối mờ ám với cộng sản. Tháng Năm 1964, Lodge gửi về Washington một báo cáo từ một nguồn tin cho rằng phong trào Phật giáo đang bị cộng sản lợi dụng nhằm kích động tình cảm chống Mĩ trên khắp Miền Nam. Mặc dù ca ngợi nguồn tin của mình là một người trong quá khứ đã từng đưa tin “cực kì chính xác”, nhưng Lodge vẫn thận trọng ghi lại ý kiến riêng là ông cảm thấy bản báo cáo này đã “nói quá đáng” (22). Lodge và nhiều viên chức khác e ngại rằng Trí Quang “có tiềm năng của một người gây rối loạn” (a potential troublemaker) và lo lắng khi thấy Trí Quang tỏ ra chống Công giáo hăng say hơn chống cộng ; nhưng điều này chưa hẳn có nghĩa là những bất đồng với Trí Quang tiêu biểu cho những vấn đề có tầm mức nghiêm trọng (23). Lodge rất lạc quan về quan hệ của Mĩ với phe Phật giáo sau một bữa ăn rất thân mật với Trí Quang và các chức sắc hàng đầu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) vào cuối tháng Năm 1964. Mặc dù Trí Quang vẫn là một nhân vật chính trị có tiềm năng nguy hiểm, nhưng Lodge nghĩ rằng Trí Quang vẫn còn biết ơn Hoa Kì đã cứu mạng và còn chấp nhận ảnh hưởng của Mĩ. Trong một cách thế gần như là một nỗ lực nhằm trấn an viên đại sứ Mĩ, một cách thế mà một chính trị gia lão luyện như Lodge chắc phải biết, Trí Quang và các lãnh đạo khác của Phật giáo nói rõ rằng mặc dù quan điểm thân Mĩ của họ là thành thật, nhưng “người Mĩ đừng kì vọng họ có thể bộc lộ công khai, vì làm như thế có nghĩa là làm hỏng vai trò tôn giáo cuả họ” (24). Thật vậy, Trí Quang lí giải với một số viên chức Mĩ vào cuối tháng Năm 1964 rằng việc một vài phần tử trong báo giới nước ngoài chụp mũ ông cộng sản là một điều có lợi, vì nó giúp ông “hoạt động hữu hiệu hơn trong nỗ lực âm thầm chống lại ảnh hưởng của Việt Cộng trong giới tín đồ đã biết rất rõ bản thân ông không phải là cộng sản” (25). Trí Quang vẫn không chịu làm hoà với chính phủ Nguyễn Khánh, một chính phủ mà ông cho là chưa thật sự cách mạng vì nó không chịu mạnh tay đối với tàn dư của chế độ Diệm. Nhưng mặt khác, Trí Quang lại rất thoải mái với giọng điệu ngày một hiếu chiến về một cuộc “bắc tiến” mà Khánh và các tướng lãnh hô hào vào mùa hè 1964. Dù nhìn nhận rằng một nhà lãnh đạo Phật giáo mà cổ vũ bạo lực là điều bất thường, nhưng Trí Quang vẫn bênh vực “những biện pháp quân sự mạnh mẽ” vì ông cho rằng “nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài ở mức độ hiện nay con số tổn thất nhân mạng sẽ cao hơn so với sự thiệt hại do một trận đánh chớp nhoáng hơn dù trong khoảnh khắc có thể đẫm máu hơn” (26=. Khi Mỹ cho máy bay tấn công Miền Bắc tháng Tám 1964, Trí Quang nói với một viên chức Toà Đại sứ rằng hàng lãnh đạo Phật giáo cũng như “nhân dân” đều tán thành những cuộc tấn công đó vì sử dụng biện pháp quân sự mạnh mẽ có nghĩa là biểu lộ “quyết tâm” của chúng ta (27).

 
 
 

Dù ông ủng hộ hành động quân sự chống lại Bắc Việt, nhưng chẳng bao lâu Trí Quang trở thành chướng ngại lớn nhất cho chính quyền Johnson trên bước đường tiến tới việc điều hành cuộc chiến quyết liệt hơn. Ngay sau đợt Mĩ dội bom Miền Bắc, Tướng Khánh tuyên bố tình trạng khẩn trương trên toàn lãnh thổ, một sắc lệnh cho phép chính phủ ông dùng công an để kiểm soát toàn diện mọi sinh hoạt chính trị. Phản ứng ban đầu của Trí Quang đối với sắc lệnh này là ủng hộ, nhưng ông lại sợ Khánh “ không đủ khôn ngoan hoặc đủ mạnh để thực thi sắc lệnh mới một cách hữu hiệu ”. Theo ý ông, dân chúng chỉ ủng hộ quyền hành mới của Khánh nếu viên tướng này chịu sử dụng nó để nhiên hậu thực thi “cuộc cách mạng” và triệt hạ toàn bộ dư đảng Cần Lao và giới thân cận chế độ Diệm (28). Liền sau khi Khánh ban hành bản hiến pháp mới, gọi là Hiến chương Vũng Tàu, Trí Quang đi đến kết luận dứt khoát là Khánh không muốn thực hiện cuộc “cách mạng”. Nếu Khánh không chịu tự nguyện làm điều phải làm, Trí Quang thông báo cho Toà Đại sứ Mĩ biết, Phật tử không còn con đường nào khác hơn là lao mình vào một cuộc vận động “bất hợp tác”, điều này có nghĩa là buộc Khánh phải lựa chọn dứt khoát giữa một bên là giới Phật tử và bên kia các sĩ quan quân đội mà Trí Quang cho là đảng viên Cần Lao hoặc Đại Việt. Bởi vì nhìn từ bên ngoài không có sự khác biệt giữa bị cộng sản hay bị Cần Lao đàn áp, Trí Quang cảnh báo, đồng bào Phật tử sẽ rút lui khỏi cuộc chiến đấu chống cộng và phó mặc cho người Mĩ và người Công giáo đánh giặc một mình nếu Khánh không thanh lọc chính phủ của ông ta (29).

Nếu những nhà hoạch định chính sách Hoa Kì có mối hoài nghi nào về sức mạnh của Trí Quang trong việc khuynh loát tình hình chính trị Miền Nam, thì những hoài nghi đó chắc chắn bị xua tan bởi những cuộc phản kháng và biểu tình bạo động bộc phát trong nhiều thành thị Việt Nam vào cuối tháng Tám 1964. Ảnh hưởng của Trí Quang lên nội dung của những cuộc phản kháng này thật là rõ nét bởi vì một trong những mối bất bình chính được những người biểu tình bày tỏ là, họ nhận thấy có quá nhiều người thân cận với Diệm trước đây trong chính phủ hiện tại. Giới chức Mĩ muốn Khánh hành động quyết liệt để vãn hồi trật tự ở Sài Gòn và nhiều thành phố khác, nhưng thay vì như vậy Khánh lại quyết định gần như đặt tương lai của chế độ ông vào trong tay Trí Quang và phe Phật giáo. Trước sự vô cùng sửng sốt của Toà Đại sứ Mĩ và giới lãnh đạo quân sự Miền Nam, Khánh không muốn liều lĩnh đương đầu một mất một còn với Trí Quang. Theo quan điểm của Trung tướng Trần Thiện Khiêm, những đòi hỏi của Trí Quang được dân chúng tin theo quá nhiều khiến Khánh không thể làm ngơ: “Khánh cảm thấy không còn lựa chọn nào hơn là phải chấp nhận, vì thanh thế của Trí Quang lớn đến nỗi ông không những có thể sách động dân chúng chống chính phủ mà còn tác động lên hiệu năng của toàn quân” (30).

 
 

Các giới chức Hoa Kỳ thường xuyên tiếp xúc với Trí Quang suốt thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng chính trị và nhiều lần cố gắng một cách vô ích nhằm thuyết phục ông ta từ bỏ cuộc đối đầu công khai. Khác với lúc xảy ra cuộc khủng hoảng 1963, bây giờ các quan chức Hoa Kì nhận thấy gần như không có bằng chứng cụ thể để bênh vực những ta thán của phe Phật giáo là họ bị chính phủ Khánh đàn áp. Đợt phản kháng và biểu tình tái diễn chẳng bao lâu sau vụ Mĩ dội bom Bắc Việt, điều mà chính Trí Quang đã cổ vũ trước đây, bị nhiều giới chức Mĩ coi như thiển cận và là một hành vi phản bội. Các giới chức Mĩ cho rằng tình hình Miền Nam nguy ngập đến nỗi mọi bất đồng giữa Phật giáo và Công giáo cần phải đặt dưới ưu tiên của cuộc chiến đấu chống lại “kẻ thù chung” là Việt Cộng và Bắc Việt. Ngược lại, Trí Quang cho rằng giai đoạn đầu tiên và cần thiết của cuộc chiến đấu đòi hỏi phải thanh lọc triệt để Chính phủ VNCH trước khi có thể đạt được bất cứ tiến bộ nào trong nỗ lực chống lại cộng sản và những người ủng hộ CS. Mặc dù Trí Quang không đạt được mục tiêu thanh lọc hoàn toàn và triệt để mọi phần tử bị cho là người của chế độ Diệm ra khỏi Chính phủ VNCH, nhưng chính quyền Khánh bị tê liệt và người ta không còn biết rõ ai là kẻ đang thực sự kiểm soát công việc chính phủ ở Sài Gòn.

Quá bối rối trước tình hình hỗn loạn ở Miền Nam, các nhà phân tích CIA bèn khởi động một nỗ lực nghiêm túc nhất nhằm xác định thực chất các mục tiêu và ý định của Trí Quang. Khỏi cần phải nói, việc đánh giá lại những động lực chính trị của Trí Quang không làm cho người Mĩ yên tâm lắm. Trong hai bản tường trình rất dài, Trí Quang được mô tả là một kẻ mị dân, cực kì chống Công giáo, một người theo chủ nghĩa quốc gia cuồng tín, và một kẻ vĩ cuồng (megalomaniac) với mục tiêu tối hậu là thành lập ở Miền Nam một chế độ thần quyền Phật giáo (31).

Nhân viên CIA còn tin rằng cuối cùng Trí Quang sẽ đòi trục xuất các lực lượng Mĩ ra khỏi Việt Nam và rằng ông ủng hộ một dạng thức trung lập nào đó, mặc dù họ nói thêm rằng quan niệm trung lập của ông khác xa với chủ nghĩa trung lập của De Gaulle. Mặc dù những báo cáo này có vẻ báo động và những đánh giá của CIA chắc chắn có mục đích gia tăng mối quan tâm nghiêm túc, nhưng những nhà phân tích này vẫn bác bỏ ý kiến cho rằng Trí Quang hoặc là một cán bộ cộng sản hoặc là có thiện cảm với cuộc chống đối vũ trang tại Miền Nam. Sau khi đánh giá kĩ lưỡng các bằng chứng do nhiều người chỉ trích Trí Quang đưa ra, CIA kết luận rằng không có bất cứ bằng chứng vững chắc nào để xác nhận giá trị của những luận cứ cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của cộng sản. Nhìn vào bản chất cá tính của Trí Quang, nhân viên CIA kết luận: “Khó mà tưởng tượng được Trí Quang chịu làm 'tay sai' cho bất cứ ai, dù đó là Hà Nội, Bắc Kinh hay Mạc Tư Khoa” (32). Vì bất cứ một nỗ lực nào nhằm triệt hạ Trí Quang khỏi sân khấu chính trị Việt Nam sẽ gặp thất bại thảm hại, CIA kết luận rằng ông ta là một “thực tế” không thể bỏ qua được vì “bất cứ một chế độ chống cộng nào ở Miền Nam muốn có cơ may tồn tại đều phải được Trí Quang ủng hộ hay chí ít, chấp nhận” (33).

 
 

Sau khi cuộc khủng hoảng chính trị tháng Tám 1964 lắng dịu, Trí Quang đã làm một ngoại lệ là trấn an các viên chức Toà Đại sứ rằng ông không chống đối việc Mĩ tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ Miền Nam. Fredrik Logevall cho rằng: “[Trí] Quang và các phần tử tranh đấu Phật giáo khác cũng phản đối sự gia tăng liên tục ảnh hưởng của Mĩ ở Miền Nam và họ càng ngày càng công khai chống lại việc đó trong nửa năm sau của 1964” (34). Nhưng, một nhận xét như vậy về Trí Quang lại tương phản với quan điểm ông ta luôn luôn bày tỏ với nhiều viên chức Toà Đại sứ trong thời gian từ tháng Chín đến tháng Mười Một 1964. Theo Trí Quang, việc đả kích Chính phủ VNCH là hoàn toàn chính đáng, nhưng ông cho rằng các đoàn thể Phật tử phải tránh chỉ trích Hoa Kì “ bởi vì viện trợ Mĩ tuyệt đối cần thiết cho cuộc chiến đấu chống cộng ” (35).

Khi một thanh niên Phật giáo bị bắt vì phân phát tài liệu chống Mĩ vào đầu tháng Chín, Trí Quang bèn cố gắng thuyết phục người Mĩ không nên quảng diễn sai lầm về hành vi đó. Trí Quang lí giải: Tín đồ Phật giáo nhất định là không chống Mĩ; trái lại, họ rất tin tưởng thành tâm thiện chí của người Mĩ ở Việt Nam, nếu đem so sánh với sự ngờ vực sâu xa của họ đối với người Pháp và người Anh, và họ hoàn toàn nhận chân được sự cần thiết phải duy trì hậu thuẫn của Mĩ ở nơi đây” (36). Trí Quang cũng thanh minh với giới chức Mĩ rằng họ không nên quan tâm về một loạt bài bình luận trên tạp chí Hải Triều Âm của Phật giáo, những bình luận mang luận điệu cổ vũ một đường lối trung lập đặt MTDTGPMN ngang hàng với Chính phủ VNCH. Theo lời Trí Quang, tác giả loạt bài bình luận sau đó đã bị giải nhiệm vì bài viết thiếu chất lượng của ông đã khiến phong trào Phật giáo bị hiểu lầm là đi theo trung lập (37).

Trí Quang bày tỏ quan điểm với viên chức Mĩ về vấn đề “trung lập” vào tháng Chín 1964, và theo giả thuyết của CIA, quan điểm của ông khác hẳn chế độ trung lập do Pháp đưa ra. Trí Quang tin rằng “thuần tuý trung lập tự thân không nhất thiết là xấu” nhưng ông chống lại bất cứ chế độ trung lập nào cho phép ảnh hưởng của Pháp trở lại trên đất nước Việt Nam (38). Hơn nữa, ông cho rằng các giới chức Mĩ cần phải nhìn nhận có nhiều loại trung lập khác nhau. Chế độ trung lập yếu ớt của Căm-pu-chia là tệ hại vì nó bị cộng sản lợi dụng, trong khi chế độ trung lập tại Ai Cập lại “thẳng tay dập tắt đám cộng sản địa phương” (39). Trí Quang cũng nhấn mạnh ông không ủng hộ những lời kêu gọi trung lập hiện nay của một số Phật tử. Khi người Mĩ bày tỏ mối bất bình với bản dự thảo do Đại đức Thích Quảng Liên đưa ra, kêu gọi các lực lượng Mĩ lẫn Việt Cộng phải rút khỏi Miền Nam, Trí Quang bèn trấn an họ rằng Quảng Liên đã được chỉ thị huỷ bỏ dự án đó và rằng ông ta có nguy cơ mất luôn chức vị trong phong trào nếu ông không chịu (40).

Chắc chắn các sử gia Chiến tranh Việt Nam thường bị cám dỗ coi sự trỗi dậy trở lại của phong trào Phật giáo vào tháng Tám – tháng Chín năm 1964 như là một phong trào hoà bình mới được khai sinh để phản đối chiến tranh và vai trò của Mĩ ở Miền Nam. Tuy nhiên, người viết sử cũng nên chống lại cám dỗ này, đặc biệt là nếu quan điểm của Trí Quang được trình bày để làm chỗ dựa chính cho luận điểm này. Kể từ khi Trí Quang ra khỏi Toà Đại sứ Mĩ tháng Mười Một 1963, mục tiêu đả kích chủ yếu của ông, trước sau như một, là vai trò quá nổi bật của người chế độ Diệm trong Chính phủ VNCH và sự thiếu quyết tâm của chế độ mới trong việc thanh lọc những phần tử này. Mũi tập trung vào các vấn đề quốc nội này cũng tiếp tục nổi bật trong những bài diễn văn hiếm hoi của ông trước công chúng. Trong một diễn từ tại Chùa Từ Đàm vào ngày 1 tháng Mười, cũng như trong một thư ngỏ gửi Phật tử đăng tải hôm sau trên báo Lập Trường, Trí Quang thậm chí không hề nhắc đến cuộc chiến đang xảy ra (41). Nếu có một người nào đọc bài diễn văn và bức thư ngỏ của Trí Quang mà không mảy may hay biết gì về Chiến tranh Việt Nam, người đó sẽ kết luận chắc nịch rằng cuộc xung đột đang xảy ra chỉ là một cuộc nội chiến giữa một bên là tín đồ Phật giáo và bên kia được gọi là bọn Cần Lao áp bức. Người Mĩ, Việt Cộng và Bắc Việt thậm chí không giữ được những vai phụ biên (peripheral players) trong các phát biểu quan điểm công khai của Trí Quang.

Khi Trí Quang bàn chuyện với các giới chức Hoa Kì trong giai đoạn này về chiến tranh và tình hình quốc tế, quan điểm trước sau như một của ông vẫn là chống cộng và thân Mĩ. Trong một phát biểu mà chắc nhiều người phản chiến cũng biểu đồng tình, Trí Quang đã trấn an giới chức Hoa Kì rằng bản thân ông và tín đồ Phật giáo không bao giờ bài Mĩ, “mặc dù đôi khi họ phản đối một số chính sách nhất định nếu xét thấy những chính sách đó sai lầm hay thiếu khôn ngoan” (42). Tháng Mười 1964, Trí Quang cam đoan với giới chức Hoa Kì rằng bản thân ông và phong trào Phật giáo từ nay sẽ dồn hết tâm trí vào sự nghiệp chống cộng. Với viễn cảnh đầy hứa hẹn về một chính phủ dân chủ hơn và sự thất bại của Hiến chương Vũng Tàu của Khánh, Trí Quang tin rằng Phật tử từ nay có thể “hướng nỗ lực chính vào việc chống cộng” (43). Mối quan ngại của Trí Quang về chủ nghĩa cộng sản vượt cả ra ngoài biên giới Việt Nam. Sau khi Trung Quốc có bom nguyên tử, Trí Quang nghĩ rằng tín đồ Phật giáo cần phải “hoạt động trên trường quốc tế nhằm hỗ trợ cho việc tạo sức đề kháng của Phật giáo chống lại sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á” (44). Theo ông, khả năng về vũ khí hạt nhân của Trung Quốc đòi hỏi phải “tăng cường gấp bội khả năng chiến tranh quy ước của Mĩ cũng như gia tăng sức mạnh tự vệ của chính các nước châu Á nhằm chống lại sự bành trướng và xâm nhập của Trung Quốc”. Đối với Trí Quang, mối quan tâm về Trung Quốc nghiêm trọng đến nỗi ông muốn xuất ngoại để nói với Phật tử các nước khác về “sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện của Mĩ ở châu Á” (45). Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như khoảng tháng Mười Một năm 1964, giới chức Hoa Kì vẫn rất hài lòng với tư duy và ý kiến chính trị của phong trào Phật giáo: “thái độ của giới Phật tử khá thuận lợi và sự cần thiết của sự hiện diện của Mĩ ở Việt Nam và ở những nước châu Á khác được họ nhìn nhận” (46).

 
 

Tuy nhiên, sự đằm thắm tương đối trong quan hệ của Mĩ đối với Trí Quang sau cuộc khủng hoảng tháng Tám chỉ là một sự lắng dịu tạm thời trước khi nổ ra một cơn bão tố thậm chí mãnh liệt hơn. Bề ngoài, Trí Quang và phong trào Phật giáo tỏ vẻ hoan nghênh sự chuyển tiếp sang một chế độ dân sự mới, nhưng chẳng mấy chốc sự thể trở nên hiển nhiên là, một số phần tử trong phong trào Phật giáo quay ra phản đối vị thủ tướng mới, Trần Văn Hương. Sự xuất hiện nhanh chóng phong trào chống đối Hương làm cho người Mĩ tưng hửng vì trong quá khứ Hương là người đã sớm lớn tiếng chỉ trích chế độ Diệm. Vào ngày 30 tháng Mười chính Trí Quang cũng đã bày tỏ với người Mĩ sự hậu thuẩn của ông dành cho Hương, nhưng chưa được một ngày sau đó ông thay đổi ý kiến, nói rằng bây giờ ông đồng ý với những kẻ cho rằng Hương “quá già nua, thiếu khả năng, không có chương trình hành động rõ ràng và bị bọn chính khách xôi thịt vây quanh”(47). Việc Hương nhấn mạnh các trọng điểm như vãn hồi trật tự xã hội và đặt tôn giáo ra ngoài chính trị và học đường cũng đổ thêm dầu vào ngọn lửa đấu tranh của Phật giáo nhắm vào chế độ ông. Vào cuối tháng Mười Một 1964, phong trào Phật giáo ở Sài Gòn cổ vũ những cuộc biểu tình nhằm buộc Hương từ chức thủ tướng.

Phong trào Phật giáo thường được các sử gia coi như là bị phân hóa giữa một cánh ôn hoà do Thích Tâm Châu lãnh đạo và một cánh triệt để hơn do Trí Quang cầm đầu. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu chống chế độ Hương cho thấy rõ rằng phân loại như thế là sai trật. Trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, chính Tâm Châu là người đóng vai trò tiên phong trong việc sách động sinh viên và tín đồ chống lại Hương. Trong khi các cuộc biểu tình diễn ra sôi sục ở Sài Gòn, địa bàn nằm dưới ảnh hưởng của Tâm Châu, thì chẳng có cuộc xuống đường nào diễn ra trên cứ địa của Trí Quang tại Huế. Trí Quang giải thích rõ với giới chức Hoa Kì ông không ủng hộ hành động chống Hương công khai vào giai đoạn này. Hơn một lần Trí Quang cũng nói rằng Tâm Châu đã sai lầm khi tự để những thế lực bên ngoài giật dây trong việc kêu gọi dân chúng biểu tình (48). Thật vậy, suốt trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, giới chức Hoa Kì vẫn tiếp tục tin tưởng Trí Quang thật sự không muốn đẩy thêm một cuộc khủng hoảng chính phủ nữa và họ có phần hi vọng ông sẽ đóng vai một lực tiết chế đối với Tâm Châu và phong trào Phật giáo nói chung (49). Tuy nhiên, giữa Trí Quang và Tâm Châu dù có bất cứ dị biệt nào vào lúc khởi đầu của cuộc vận động chống Hương đi nữa, những dị biệt này cũng chưa đủ lớn để giới chức Mĩ có thể li gián hai nhà sư. Cương quyết đòi hỏi Hương phải từ chức, Trí Quang và Tâm Châu bắt đầu một cuộc tuyệt thực chung ngày 12 tháng Chạp.

Những người hoạch định chính sách Mĩ ủng hộ Hương hết mình trong cuộc đối đầu với phe Phật giáo. Đại sứ Maxwell Taylor không tin rằng phe Phật giáo đưa ra được kêu nài nào chính đáng nhắm vào chính phủ Hương và ông ta nghĩ rằng điều rất quan trọng là chính phủ Nam Việt Nam phải có lập trường cứng rắn đối với những nhóm phản đối “thiểu số nhưng to tiếng” (50). Mặc dù trong thực tế cả Trí Quang và Tâm Châu đều bày tỏ ý muốn thương thuyết để giải quyết những bất đồng với chế độ Hương cũng như muốn nhờ Hoa Kì làm trung gian để giải quyết cuộc xung đột, nhưng Taylor không muốn gặp hai nhà sư này hay làm trung gian hoà giải giữa phe Phật giáo và chế độ Hương. Taylor còn phản bác ý kiến nhờ Lodge gửi một lá thư cho Trí Quang hay đưa ra hứa hẹn Mĩ sẽ viện trợ kinh tế rồi giao cho phe Phật giáo kiểm soát (51). Lập trường không khoan nhượng của Taylor nhắm vào Trí Quang và phong trào Phật giáo chắc chắn là một lập trường có thể bênh vực được, nhưng nó cũng chắc chắn sẽ làm cho cuộc khủng hoảng kéo dài thêm. Phe Phật giáo và Taylor có một kẻ thù chung [là Tướng Khánh] sau khi Khánh bãi bỏ Thượng Hội Đồng vào ngày 20 tháng Chạp 1964, nhưng Taylor không thiết tha theo đuổi một đường lối có lẽ đã khai thác được mối ngờ vực lâu ngày của Trí Quang đối với Khánh (52).

Loại chế độ chính trị nào mà Trí Quang muốn thấy cầm quyền ở Miền Nam thì cũng không rõ ràng cho lắm. Có khi, ông gợi ý chỉ cần thay Hương bằng một nhân vật có thiện cảm hơn với Phật giáo như Phan Huy Quát chẳng hạn thì phong trào Phật giáo sẽ chấm dứt những cuộc chống đối. Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ với giới chức Hoa Kì rằng ông sẵn sàng ủng hộ một chính phủ thậm chí độc tài hơn miễn là chính phủ đó “thật sự cách mạng” (53). Nếu một chế độ như thế chịu đặt Đảng Cần Lao ra ngoài vòng pháp luật, Trí Quang sẵn sàng chấp nhận việc chế độ ấy có đủ toàn quyền cấm chỉ đình công, giới hạn tự do ngôn luận và tiết chế các đảng phái chính trị, những đảng mà theo ông phải có “mục tiêu chống cộng và lí tưởng chống trung lập rõ ràng dứt khoát” (54). Mặc dù Trí Quang hiển nhiên không thu hút đủ hậu thuẫn để thay đổi sâu rộng Chính phủ VNCH, nhưng ông đã có thể vận động kết liễu chính phủ Hương vào cuối tháng Giêng bằng cách dành hậu thuẫn Phật giáo cho Khánh. Những người làm chính sách Mĩ đã bị sốc khi thấy rằng lại một lần nữa Trí Quang có thể đóng vai một kẻ chọn lựa lãnh tụ (kingmaker) cho sân khấu chính trị Miền Nam. Vì đã hoàn toàn gắn chặt uy tín của Hoa Kì vào việc phải duy trì một chính phủ dân sự, các nhà phân tích CIA ngày càng quan ngại về tương lai của việc điều hành quốc gia ở Miền Nam. Đòn bẩy chính trị của Mĩ đã bị yếu đi nhiều lắm rồi, và CIA kết luận phe Phật giáo “đủ mạnh để vô hiệu hoá bất cứ dàn xếp chính trị nào mà lãnh đạo của họ quyết tâm chống đối” (55).

 
 

Sau vụ đảo chánh, cũng dễ hiểu thôi, các nhà phân tích của Mĩ lại trở về với câu hỏi, liệu những nỗ lực của Trí Quang có bị thúc đẩy do cảm tình hay móc nối với cộng sản hay không ? Sử gia Moyar cho rằng Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn ngày càng nghiêng về luận cứ cho rằng phong trào Phật giáo bị cộng sản xúi giục:

Viên chức Toà Đại sứ vẫn tin tưởng rằng hầu hết các vị lãnh đạo chóp bu của Phật giáo đều có tinh thần chống cộng, nhưng càng ngày càng có thêm nhiều viên chức nghi ngờ rằng chí ít Trí Quang cũng đang cộng tác với Cộng sản. Các chuyên gia Toà Đại sứ nhất trí rằng những lãnh đạo Phật giáo cấp thấp hơn, đặc biệt là những người thân cận với Trí Quang, đang liên minh với Việt Cộng (56).

Để chứng minh cho sự đánh giá này, Moyar chỉ viện dẫn một chứng liệu duy nhất, tiếc rằng tư liệu ấy lại không phải như vậy. Đó là điện văn ngày 31 tháng giêng, đánh đi từ Toà Đại sứ, do nhân viên Toà Đại sứ và những viên chức tình báo – những người thường xuyên tiếp xúc với Trí Quang và phong trào Phật giáo – cùng biên soạn, nhưng chính Taylor đích thân chuẩn y bức điện bằng cách nói rằng nó cũng phản ánh quan điểm của các viên chức cấp cao. Sau khi nhìn nhận mọi cách thế theo đó các hoạt động của phong trào Phật giáo đã làm tổn hại nghiêm trọng cho sự nghiệp chống cộng, các viên chức Toà Đại sứ nhấn mạnh dứt khoát rằng vào lúc này họ “không chia sẻ quan điểm cho rằng các lãnh đạo Phật giáo cố tình đứng về phe Cộng sản hay rằng những mục tiêu của họ bao gồm việc cố tình tạo ra một tình thế trong đó cộng sản sẽ giành được quyền kiểm soát chính trị ở Miền Nam Việt Nam… Nói tóm lại, giả thuyết các lãnh đạo của GHPGVNTN hoạt động cho cộng sản không đáng tin bằng cách lí giải thích rằng họ hoạt động cho chính họ, sử dụng những phương tiện vô trách nhiệm nhằm theo đuổi mục đích của mình, và điều này có thể bị Cộng sản khai thác lợi dụng” (57).

Tuy rất lo ngại về chiến thuật và ý tưởng của vài người trong đám thân cận với Trí Quang và Tâm Châu, các viên chức toà đại sứ nhất định không “đồng ý” rằng điều này có nghĩa là họ liên minh với Việt Cộng. Chắc chắn Toà Đại sứ Mĩ ở Sài gòn thực sự nghĩ rằng cộng sản đang gia tăng nỗ lực xâm nhập hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo, nhưng điểm quan trọng họ nêu ra ở đây là không một tin đồn nào về việc móc nối VC được coi là có bằng chứng, và toà đại sứ lặp lại kết luận là cộng sản không chi phối được chính sách của GHPGVNTN (58). Sau cùng, điều khá lí thú về quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn là chính Toà Đại sứ lại lo lắng về một chính phủ có nhiều nhân vật thân cận với Tâm Châu, vị sư thường được coi là chống cộng hơn [Trí Quang], hơn là lo lắng về một chính phủ mà thành viên là người thân cận với Trí Quang.

Quan chức Bộ Ngoại giao Mĩ ở Washington hoàn toàn chuẩn y quan điểm của Toà Đại sứ ở Sài gòn. Khi kí giả Marguerite Higgins đăng một bài trên báo The Washington Star cảnh báo rằng chính quyền Johnson cần phải thức tỉnh đối với Trí Quang và điều mà nhà báo gọi là những âm mưu của ông ta với cộng sản, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk chỉ thị người đứng đầu Đoàn Công tác Việt Nam (the Vietnam Working Group / VWG) trả lời riêng với Higgins. Thomas Corcoran, Giám đốc VWG, nhận định nghiêm chỉnh rằng không có chuyện các nhân viên tình báo biết chắc Trí Quang có móc nối Cộng sản và cũng không có chuyện dữ liệu này phần nào đang bị những người làm chính sách ở Washington ém nhẹm. Đích xác dựa vào ý kiến của các nhân viên nói tiếng Việt của toà đại sứ, Corcoran lí luận rằng không ai có thể đưa ra bất cứ một nhận xét tối hậu hay dứt khoát nào về mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang. Mặc dù một số lời nói và việc làm của phong trào Phật giáo có thể vô tình làm lợi cho cộng sản, Corcoran ghi nhận rằng “họ cũng làm được nhiều việc nhằm chống lại và chặn đứng âm mưu của cộng sản nhằm nới rộng quyền kiểm soát lên đầu dân chúng Việt Nam” (59).

 
 

Sau khi Hương mất ghế thủ tướng chính phủ, Trí Quang tìm cách trấn an Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn rằng những nỗ lực của ông không phản ánh của một tinh thần cơ bản chống Mĩ. Trả lời phỏng vấn của những tờ báo tiếng Anh ở Sài Gòn, Trí Quang nhìn nhận có sự phẩn uất của phía Phật giáo đối với Đại sứ Taylor và đối với sự hậu thuẫn trung thành mà Mĩ dành cho Hương, nhưng ông cũng biện luận rằng người Phật tử không thể có tinh thần bài Mĩ: “Không có chuyện chống Mĩ. Người ta chỉ có thể chống Mĩ nếu người ta theo Cộng sản hay theo chủ nghĩa sô-vanh. Vì Phật giáo không phải là cộng sản và cũng không phải là sô-vanh, nên không có chủ trương chống Mĩ” (60). Trong các đàm đạo riêng tư với nhiều viên chức toà đại sứ, Trí Quang cố truyền đạt đại ý rằng ông vẫn còn là một đồng minh vững chắc của chính phủ Hoa Kì và rằng ông rất buồn phiền vì hành động cực đoan của vài người cộng sự trong phong trào Phật giáo. Mặc dù, cũng dễ hiểu là, người Mĩ đang thất vọng về tình hình Việt Nam, nhưng Trí Quang không tin là Hoa Kì có thể hay phải chấp nhận khả năng thất bại. Trong khi lặp lại một ý kiến trước đây của ông rằng có loại trung lập chấp nhận được và có loại trung lập không thể chấp nhận được cho Việt Nam, Trí Quang lí giải với các viên chức Mĩ rằng “Sự hiện diện của Hoa Kì vẫn còn rất cần thiết ở Việt Nam nhằm chặn đứng một cuộc xâm chiếm của cộng sản. Vẫn còn hi vọng chiến thắng; Hoa Kì không được nản lòng và bỏ cuộc. Nhưng Hoa Kì phải có tư tưởng của kẻ chiến thắng và chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm của mình trong nỗ lực chiến tranh” (61).

Nhưng, điều mà Trí Quang coi là trách nhiệm của chính bản thân ông trong nỗ lực chiến tranh là gì thì vẫn rất khó nhận ra. Vào đầu tháng Hai 1965, theo tường trình của CIA, Trí Quang đã nói rằng “ông sẽ lấy làm rất sung sướng để hoạt động trong những chương trình chống cộng có phạm vi rộng lớn… quân đội và người Mĩ có thể chiến đấu trên chiến trường nhưng người Phật tử sẽ theo đuổi chiến tranh tâm lí, trận chiến mà ông cho là quan trọng hơn quân sự rất nhiều” (62). Mặc dù có nhiều lí do để thắc mắc Trí Quang đã chân thật đến mức độ nào khi diễn tả nhiệt tình chống cộng, nhưng những nhà hoạch định chính sách Mĩ hình như không bao giờ quan tâm khai thác năng lực phong phú của Trí Quang theo chiều hướng này. Sự thiếu quan tâm này được giải thích phần nào là do sự thiếu tin tưởng mà giới chức Hoa Kì dành cho Trí Quang và do mối lo sợ rằng những chương trình chống cộng của ông có thể gây trở ngại cho các mục tiêu của Hoa Kì hay Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Tuy nhiên, rõ ràng là các viên chức Mĩ đã chấp nhận quan điểm cho rằng những nỗ lực chống cộng của Trí Quang có thể thành công cao độ nếu ông không bị coi như một kẻ hoàn toàn liên minh với chính phủ Hoa Kì.

 
 

Việc Trí Quang bày tỏ ước muốn hoạt động độc lập đằng sau hậu trường cũng có thể là một cách hợp lí hoá qua loa cho sự không hoạt động gì cả, nhưng thực tình mà nói, ông cũng đã ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Mĩ vào mùa xuân năm 1965. Vào khoảng tháng Hai 1965 giới chức Hoa Kì tỏ ra rất lo ngại rằng phong trào Phật giáo sẽ công khai chấp nhận đề nghị chấm dứt chiến tranh thông qua một sự dàn xếp bằng đàm phán với MTDTGPMN. Những lo ngại này bỗng trở thành hiện thực vào cuối tháng khi Thích Quảng Liên công bố một tuyên ngôn kêu gọi các lực lượng của MTDTGPMN và Mĩ cùng rút ra khỏi Miền Nam. Quảng Liên, một nhà sư nổi tiếng từng học ở Đại học Yale, đã đưa vào trong bản tuyên ngôn những lời tri ân về viện trợ Mĩ trong quá khứ, nhưng những tuyên bố như thế không thế nào thay đổi sự báo động của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn về một lời kêu gọi mà họ cho là ngây thơ và nguy hiểm (63).

Liền sau khi bắt đầu chiến dịch dội bom Rolling Thunder (Sấm Động) đánh vào Miền Bắc, giới chức Mĩ lo ngại rằng lời kêu gọi một cuộc dàn xếp bằng đàm phán của phong trào Phật giáo sẽ gây trở ngại cho khả năng điều hành cuộc chiến.

Trí Quang hoàn toàn chia sẻ mối quan ngại của toà đại sứ về những hoạt động của phong trào hoà bình Thích Quảng Liên. Điều có ý nghĩa là, khi được một viên chức toà đại sứ hỏi là liệu đề xuất của ông có được hậu thuẫn của giới lãnh đạo Phật giáo hay không, Quảng Liên chỉ trả lời bản tuyên ngôn được sự ủng hộ của Tâm Châu, nhà sư thường được cho là “ôn hoà”. Quảng Liên không nói rõ là nó có được sự hậu thuẫn của nhà sư “cực đoan” Trí Quang.

 

Tô văn Phước



Pd Minh Đức
Vu lan – Tân Sửu. Tháng 08.2021